
Còn
quan điểm thứ hai cho rằng, ngoài hai trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 43
Luật THADS thì còn cần phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khi
đương sự vắng mặt tại địa phương. Cơ sở pháp lý của quan điểm này là theo quy
định tại khoản 1, 2 Điều 43 của Luật THADS. Cụ thể, khoản 1 Điều 43 xác định rõ
những trường hợp nào cần phải thông báo; khoản 2 Điều 43 là quy phạm về thủ tục
thông báo. Khi có một hoặc hai điều kiện nêu trong khoản 1 Điều 43 thì cơ quan
THADS phải áp dụng khoản 2 Điều 43 Luật THADS để xác định thực hiện thủ tục
thông báo trên phương tiện thông tin đại ở địa phương hoặc Trung ương cho phù
hợp. Trường hợp đương sự vắng mặt tại địa phương không phải là điều kiện yêu
cầu phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Do vậy, cách hiểu theo
quan điểm thứ nhất là chính xác.
Về
phương thức thực hiện, Điều 43 Luật THADS quy định cụ thể: Trường hợp xác định
đương sự đang có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được
thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài
truyền hình của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của địa phương đó hai lần
trong 2 ngày liên tiếp. Trường hợp xác định đương sự không có mặt tại địa
phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày
trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của trung ương
hai lần trong 2 ngày liên tiếp.
Ngày
thực hiện việc thông báo lần hai trên phương tiện thông tin đại chúng là ngày
được thông báo hợp lệ. Ngoài ra, việc thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng theo khoản 2 Điều 43 Luật THADS đồng thời còn có thể được công khai trên
trang điện tử của Cục THADS, Cổng thông tin điện tử của Tổng cục THADS thuộc Bộ
Tư pháp (khoản 5 Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP).
Việc
quy định hình thức thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng là rất tiến
bộ và phù hợp với thời đại công nghệ thông tin hiện nay, tuy nhiên cần nghiên
cứu bổ sung các quy định rõ ràng hơn về phương tiện thông tin đại chúng được sử
dụng bao gồm những loại hình nào, ví dụ: là báo in hay báo điện tử…
Về
chi phí khi đương sự yêu cầu thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng,
đặc biệt là khi người được thi hành án yêu cầu, tại Điều 73 Luật THADS và Thông
tư số 200/2016/TT-BTC đã có quy định về việc lập, quản lý, sử dụng và quyết
toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan THADS, kinh phí cưỡng chế thi hành
án. Theo đó, người được thi hành án chịu các chi phí sau: Chi phí định giá lại
tài sản nếu người được thi hành án yêu cầu định giá lại, trừ trường hợp định
giá lại do có vi phạm quy định về định giá; một phần hoặc toàn bộ chi phí xây
ngăn, phá dỡ trong trường hợp bản án, quyết định xác định người được thi hành
án phải chịu chi phí xây ngăn, phá dỡ; chi phí kê biên, xử lý tài sản quy định
tại khoản 4 Điều 17 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP tương ứng với tỷ lệ số tiền, tài
sản mà họ thực nhận.
Trường hợp người được
thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án
không đúng thì người đó phải thanh toán các khoản chi phí thực tế do việc thi
hành quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án đó. Luật không quy định
về khoản chi phí khi người được thi hành án yêu cầu thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng, dẫn đến các cơ quan THADS còn nhiều lúng túng khi thực
hiện thu các khoản tiền này, do đó đây cũng là một vấn đề cần xem xét bổ sung
trong thời gian tới.
Thanh
Hoa - Duy Bằng
Bài đăng trên báo Pháp Luật Việt Nam ngày 15/7/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét