21/05/2018

Theo Điều 365, Điều 370 Bộ luật Dân sự năm 2015( BLDS năm 2015) Chuyển
giao quyền, nghĩa vụ dân sự là trường hợp người có quyền hoặc có nghĩa vụ không
tự mình hưởng quyền hoặc tự mình thực hiện nghĩa vụ đã giao kết mà chuyển giao
cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Vấn đề chuyển giao quyền
nghĩa vụ thi hành án được quy định chi tiết tại Điều 54 Luật THADS sửa đổi,
bổ sung năm 2014( Luật THADS);
Điều 15 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật THADS(Nghị định số 62/2015/NĐ-CP); Điều 8 Thông tư
liên tịch 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định một số vấn đề về thủ tục thi
hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong THADS(Thông tư liên tịch
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC).
Pháp luật
hiện hành đã quy định tương đối cụ thể về vấn đề chuyển giao quyền, nghĩa vụ
thi hành án. Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng còn có một số vướng mắc như sau:
Thứ nhất: Trường hợp doanh nghiệp giải thể do bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh
Theo quy
định của Luật Doanh nghiệp năm 2014( Luật DN) thì nghĩa vụ thi hành án được
chuyển giao theo quy định của Luật DN. Điều 201, Điều 203 Luật DN đã quy định
rõ ràng về các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp và giải thể doanh
nghiệp trong trường hợp bị thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp(GCN) hoặc theo
quyết định của Tòa án. Theo đó, Doanh nghiệp chỉ được giải thể khi
bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác và doanh nghiệp
không trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc cơ quan trọng tài.
Người quản lý có liên quan và doanh nghiệp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 201
Luật DN( trường hợp doanh nghiệp giải thể do bị bị thu hồi GCN) cùng
liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp. Như vậy, một doanh nghiệp phải thi hành án
nhưng đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi GCN thì cơ quan THADS phải thực hiện
nghĩa vụ chuyển giao các khoản nợ của doanh nghiệp cho người quản lý có liên
quan để cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ của doanh nghiệp.
Theo quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 50 Luật THADS thủ trưởng cơ quan THADS
ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án là
tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa
vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác. Tuy nhiên theo Điều 201 Luật
DN thì người quản lý có liên quan cùng liên đới chịu trách nhiệm về các khoản
nợ của doanh nghiệp. Do đó cần quy định rõ ràng về việc khi một tổ chức bị giải
thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ đó không được
chuyển giao cho tổ chức, cá nhân khác
thì cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi hành án.
Thứ hai: Trường hợp chuyển giao nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đứng tên chủ sở hữu sử dụng tài sản chết:
Khoản 2 Điều 54 Luật THADS và điểm b khoản 1 Điều 15 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP đã quy định cụ thể về trường hợp người được
thi hành án, người phải thi hành án là cá
nhân chết thì quyền, nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao cho người khác theo
quy định của pháp luật về thừa kế. Tuy nhiên, đối với trường hợp
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đứng tên chủ sở hữu, sử dụng tài sản đảm
bảo thi hành án chết (thường gặp trong các vụ việc tín dụng, ngân hàng) thì
luật THADS lại chưa có quy định cụ thể.
Đối
với các tài sản đảm bảo thi hành án là tài sản thế chấp đứng tên sở hữu, sử
dụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan thường được thông qua hợp đồng
ủy quyền hoặc bảo lãnh. Điểm đ khoản 3 Điều 140 BLDS năm 2015 quy định khi bên
ủy quyền chết thì hợp đồng ủy quyền chấm dứt; trường
hợp bên bảo lãnh là cá nhân chết thì bảo lãnh chấm dứt, nghĩa vụ bảo lãnh được
chuyển giao cho người thừa kế. Trường hợp nghĩa
vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì phạm vi bảo lãnh
không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo
lãnh chấm dứt tồn tại(khoản 4 Điều 336 BLDS năm 2015).Theo đó, có thể thấy khi người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đứng tên chủ sở hữu, sử dụng tài sản đảm bảo thi hành án
chết được xác định là sự kiện pháp lý ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo
thi hành án, nhưng Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa có quy
định cụ thể về vấn đề này.
Chuyển
giao quyền, nghĩa vụ thi hành án là một vấn đề phức tạp và có ý nghĩa quan
trọng trong quá trình tổ chức thi hành án, do đó cần được tiếp tục nghiên cứu,
hoàn thiện trong thời gian tới.
Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa
(Bài đăng trên Báo Pháp luật Việt Nam ngày 21/5/2018)http://m.baophapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/chuyen-giao-quyen-nghia-vu-thi-hanh-an-can-huong-dan-cu-the-393917.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét