
27/03/2018
Điều 106, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”[1].Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động nhằm đảm bảo thực thi trên thực tế các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án và các quyết định của Trọng tài Thương Mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh[2].
Công tác THADS có ý nghĩa, vai trò và vị trí rất quan trọng, nhất là trong điều kiện chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Hoạt
động THADS ở nước ta trong những năm vừa qua có nhiều tiến bộ vượt bậc đáng ghi
nhận trong mọi mặt hoạt động, trong đó có hoạt động ban hành quy phạm pháp luật
về thông báo THADS. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về THADS ngày càng
hoàn thiện, tạo nhiều thuận lợi cho công tác THADS, trong đó các quy định về
thông báo thi hành án đã cụ thể, rõ ràng hơn, góp phần đảm bảo cho Cơ quan
THADS, Chấp hành viên thực hiện tốt nhiệm vụ thông báo của mình.
Thông báo trong Thi hành án dân sự là
việc cơ quan Thi hành án dân sự gửi các “Quyết định về thi hành án, giấy báo,
giấy triệu tập và văn bản khác có liên quan đến việc thi hành án, … cho đương
sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội
dung của văn bản đó”[3].
Luật THADS đã dành 05 điều luật (từ Điều 39 đến Điều 43) quy định về vấn đề
thông báo THADS, đồng thời Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS( Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) và
Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC. Điều này thể hiện
tầm quan trọng của công việc thông báo trong THADS.
Việc quy định chặt chẽ về đối tượng,
trình tự, thủ tục thông báo không chỉ đảm bảo cho thông tin đến được với đương
sự, người liên quan[4] mà còn
có tầm quan trọng trong việc đảm bảo trình tự thủ tục thi hành án theo đúng quy
định của pháp luật.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các
quy phạm pháp luật về thông báo THADS vào thực tiễn tổ chức thi hành án vẫn còn
có nhiều vấn đề chưa thống nhất, gây khó khăn trong việc áp dụng. Trong phạm vi
bài viết, chúng tôi đi sâu phân tích một số quan điểm về áp dụng pháp luật về
thông báo thi hành án và một số kinh nghiệm có liên quan về việc thông báo các
văn bản trong thi hành án dân sự và hình thức
thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
Thứ nhất, Thông báo thi hành án trên phương
tiện thông tin đại chúng.
Điều 43 Luật THADS và khoản 5 Điều 12
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã có quy định
khá chi tiết về vấn đề thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng. Tuy
nhiên, qua thực tiễn cho thấy việc áp dụng quy phạm pháp luật trong việc thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng vẫn còn chưa thống nhất:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Cơ quan THADS, Chấp hành
viên chỉ thực hiện việc thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khi pháp
luật có quy định hoặc đương sự có yêu cầu. Căn cứ pháp lý của quan điểm này dựa
vào quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật THADS.
Quan điểm thứ hai cho rằng: ngoài hai trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 43 nêu trên thì còn cần phải thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng khi đương sự vắng mặt tại địa phương. Cơ sở pháp lý của
quan điểm này là theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 43 của Luật THADS[5].
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ
nhất, bởi vì:
Một là, khoản
1 Điều 43 Luật THADS chỉ quy định phải thực hiện thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng khi pháp luật có quy định hoặc đương sự có yêu cầu. Quy
định đã xác định điều kiện để thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Vì vậy, Cơ quan THADS và Chấp hành viên chỉ thực hiện thông báo trên phương
tiện thông tin đại chúng khi có 1 trong hai điều kiện hoặc có cả 2 điều kiện
quy định nêu trên.
Hai là, khoản
2 điều 43 Luật THADS không phải là điều kiện để thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng mà là quy phạm về thủ tục thông báo. Khi có 1 hoặc 2 điều
kiện nêu trong khoản 1 Điều 43 Luật THADS thì Cơ quan THADS, Chấp hành viên
phải áp dụng khoản 2 Điều 43 Luật THADS để xác định thực hiện thủ tục thông báo
trên phương tiện thông tin đại chúng như thế nào – hoặc là phương tiện thông
tin đại chúng ở địa phương hoặc Trung ương. Do vậy, trường hợp đương sự vắng mặt
tại địa phương không phải là điều kiện yêu cầu phải thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng.
Bên cạnh đó, quan điểm thứ hai cho
rằng khoản 1 Điều 43 quy định: “Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng
khi pháp luật có quy định” và khoản 2 Điều 43 Luật THADS cũng là một quy định
của pháp luật vì vậy việc đương sự vắng mặt tại địa phương cũng cần phải thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Theo chúng tôi quan điểm này hiểu một
cách máy móc về quy phạm pháp luật thông báo THADS. Bởi vì, khi xét đến một
điều luật để áp dụng, chúng ta phải đặt nó trong tổng thể của Điều luật, của Mục,
của Chương, của Chế định luật,…Về mặt kỹ thuật lập pháp, nếu chúng ta cho rằng
việc vắng mặt của đương sự ở tại địa phương cũng là điều kiện để thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng thì tại sao nhà làm luật lại thiết kế riêng
biệt thành các khoản khác nhau?. Điều 43 Luật THADS được thiết kế với 3 khoản
khác nhau và với các quy phạm pháp luật khác nhau. Khoản 1 Điều 43 Luật THADS
quy định về điều kiện thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng – tức là
xác định rõ những trường hợp nào cần phải thông báo; khoản 2 Điều 43 Luật THADS
quy định về thủ tục thực hiện việc thông báo khi có 1 trong hai điều kiện hoặc
có cả 2 điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật THADS thì xác định xem
đương sự có ở địa phương hay không để thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng ở địa phương hoặc Trung ương.
Ví dụ: khi Chấp hành viên tổ chức việc bán đấu
giá theo quy định tại khoản 3 Điều 101 Luật THADS thì theo quy định tại Điều 56,
57 Luật đấu giá tài sản năm 2016,… Chấp hành viên phải thông báo, trong đó có
thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Đây chính là quy định
của pháp luật buộc phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và khi
đó cơ quan THADS, Chấp hành viên phải áp dụng khoản 2 Điều 43 để xác định thủ
tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương hay Trung ương
cho phù hợp.
Theo chúng tôi, việc hiểu đúng, áp
dụng đúng quy phạm pháp luật này là một yêu cầu rất quan trọng. Kinh nghiệm từ
thực tiễn cho thấy chúng ta phải áp dụng đúng, đủ theo quy định của pháp luật,
không nên thực hiện dư thừa các thủ tục sẽ làm mất nhiều thời gian, công sức,
tiền bạc và nhiều khả năng còn phải chịu trách nhiệm về các khoản chi trả không
đúng theo quy định.
Vì vậy, chúng ta chỉ thực hiện việc
thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khi pháp luật có quy định hoặc
đương sự có yêu cầu. Trường hợp đương sự vắng mặt không thể thực hiện được
thông báo trực tiếp thì chúng ta phải áp dụng quy phạm phạm pháp luật của khoản
2 Điều 40 và Điều 41 Luật THADS để thực hiện việc thông báo và như thế, chúng
ta đã thông báo hợp lệ[6].
* Hiệu quả của kinh nghiệm này là: Theo chúng tôi, kinh nghiệm áp dụng quy phạm
pháp luật thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại chúng có hiệu quả
là đảm bảo việc áp dụng quy phạm pháp luật đúng, đầy đủ, chính xác theo đúng
yêu cầu của pháp luật. Qua đó, tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức để thực
hiện các công việc khác. Và điều đặc biệt quan trọng là tránh được trách nhiệm
bồi thường có thể xảy ra do đương sự khiếu nại, tố cáo việc thông báo không
đúng quy định làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
* Về giải pháp:
Kiến nghị Tổng cục THADS xem xét có hướng
dẫn, chỉ đạo việc áp dụng quy phạm pháp luật thông báo trên phương tiện thông
tin đại chúng để có những chỉ đạo, quán triệt việc áp dụng thống nhất quy định
này.
Thứ hai, Thông báo thi hành án đối với các
văn bản khác.
Khoản 1
Điều 39 Luật THADS quy định: Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu
tập và văn bản khác có liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương
sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội
dung của văn bản đó”.
Vấn đề đặt ra là “ Văn bản khác có liên quan đến việc thi hành
án” là những loại văn bản nào? Luật THADS năm 2008, Luật THADS sửa đổi, bổ
sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành đều bỏ ngỏ, không quy định,
không hướng dẫn cụ thể vấn đề này. Vì vậy, việc hiểu và áp dụng quy phạm thông
báo này còn nhiều tranh luận, quan điểm khác nhau, và thực hiện một cách khác
nhau.
Ví dụ: Về vấn đề thông báo bán đấu
giá tài sản thi hành án
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: khi Cơ
quan THADS đã ký kết hợp đồng ủy quyền việc bán đấu giá tài sản cho tổ chức bán
đấu giá theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật THADS năm 2008 thì đối với việc
thông báo phải thực hiện theo pháp luật về bán đấu giá tài sản, do đó Cơ quan
THADS, Chấp hành viên không có trách nhiệm phải thông báo cho các đương sự,
người liên quan trừ trường hợp tài sản đã ký hết hợp đồng và đã hết thời hạn mà
không bán được theo quy định tại Điều 104 Luật THADS (được sửa đổi, bổ sung năm
2014).
Quan điểm này viện dẫn pháp luật
không có yêu cầu phải thông báo vì thực tế các đương sự và người liên quan đã
biết và buộc phải biết về việc tổ chức bán đấu giá. Trong suốt quá trình thi
hành án, các đương sự và người liên quan đã được thông báo nhiều trình tự liên
quan đến việc kê biên, thỏa thuận về giá, thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định
giá, lựa chọn tổ chức bán đấu giá,…Vì vậy, họ phải có trách nhiệm liên hệ với
tổ chức bán đấu giá để được biết về việc tổ chức bán đấu giá tài sản đối với
tài sản có liên quan đến mình.
- Quan điểm khác lại cho rằng, các
thông báo bán đấu giá tài sản, thông báo bán đấu giá tài sản không thành,… thậm
chí là cả thông báo có người đăng ký mua tài sản bán đấu giá,…thì đều phải thực
hiện việc thông báo cho các đương sự và người liên quan biết để bảo vệ quyền
lợi của mình.
Quan điểm này viện dẫn quy định tại
khoản 1 Điều 39 và rằng đây là “văn bản
khác” cần phải thông báo cho đương sự và người liên quan.
Cả hai quan điểm trên đều có những luận
cứ về pháp lý và thực tiễn nhất định, bởi
vì:
Xét về mặt thực tiễn thì các đương sự
và người liên quan đều đã biết và buộc phải biết về quá trình tổ chức thi hành
án, trong đó có việc đưa tài sản kê biên ra bán đấ giá. Vì vậy, họ phải có
trách nhiệm liên hệ với tổ chức bán đấu giá, cơ quan THADS để bảo vệ quyền lợi
của mình (nếu có).
Xét về mặt pháp lý thì những thông
báo trên, mặc dù còn chưa rõ ràng và ngay cả các biểu mẫu thông báo cũng không
quy định, nhưng những văn bản thông báo đó vẫn thuộc trường hợp “văn bản khác”
và phải thực hiện. Điều này góp phần bảo
vệ Chấp hành viên, Cơ quan THADS khi có khiếu nại, tố cáo.
Với kinh nghiệm của những người làm
thực tiễn chúng tôi cho rằng trong
trường hợp này nên thực hiện đầy đủ việc thông báo, kể cả đối với những văn bản
thông báo còn nhiều quan điểm khác nhau. Vì khi có khiếu nại, tố cáo thì đương
sự, người liên quan thường viện vào lý do không nhận được thông báo để khiếu
nại ...dẫn đến khó khăn cho chấp hành viên khi tổ chức thi hành án .
* Hiệu quả của kinh nghiệm này là:
Khi pháp luật chưa có quy phạm rõ ràng, còn nhiều cách hiểu, cách làm khác nhau
thì Chấp hành viên nên lường trước những hậu quả có thể xảy ra để tác nghiệp
một cách an toàn nhất. Chấp hành viên nên thông báo tất cả các văn bản có liên
quan đến đương sự, người liên quan biết để họ biết và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ, và đồng thời Chấp hành viên sẽ bảo vệ được chính mình.
* Về giải pháp:
Giải pháp trước mắt: Kiến nghị Tổng cục THADS xem xét hướng dẫn đối với khoản 1 Điều 39 Luật
THADS năm 2008 về “…văn bản khác…” là
những loại văn bản nào mà Cơ quan THADS, Chấp hành viên phải thực hiện việc
thông báo cho đương sự, người liên quan.
Giải pháp lâu dài: Kiến nghị Tồng cục THADS, Bộ Tư pháp xem xét kiến nghị Quốc hội sửa
đổi, bổ sung Luật THADS vào thời điểm thích hợp đối với khoản 1 Điều 39 Luật
THADS về “…văn bản khác…” theo hướng cụ
thể rõ ràng các quyết định, văn bản mà Cơ quan THADS, Chấp hành viên phải thực
hiện việc thông báo cho đương sự, người liên quan. Bên cạnh đó, cần thiết loại
bỏ cụm từ “văn bản khác” vì dẫn đến
nhiều cách hiểu, cách áp dụng khác nhau và tránh những rủi ro không đáng có cho
người thực thi công vụ.
Hiểu đúng và áp dụng đúng quy phạm
pháp luật về thông báo thi hành án nói riêng và các quy định pháp luật về THADS
nói chung là một yêu cầu bắt buộc đối với Cơ quan THADS, Chấp hành viên. Đồng
thời, cần thiết phải có một cơ chế pháp lý đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn về thông
báo thi hành án để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho chấp hành viên trong quá
trình tác nghiệp.
Đồng tác giả: ThS. Đinh Duy Bằng- ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa
(Bài viết đăng trên Cổng thông tin Điện tử Tổng Cục THADS ngày 27/3/2018)
http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=864
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2018/04/05/ve-thng-bo-trn-phuong-tien-thng-tin-dai-chng-v-thng-bo-cc-van-ban-khc-trong-thi-hnh-n-dn-su/
http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=864
https://thongtinphapluatdansu.edu.vn/2018/04/05/ve-thng-bo-trn-phuong-tien-thng-tin-dai-chng-v-thng-bo-cc-van-ban-khc-trong-thi-hnh-n-dn-su/
[1]
Điều 106 Hiến pháp năm 2013.
[2] Điều 1,
Điều 2 Luật THADS
[3]
Khoản 1, Điều 39 Luật THADS.
[4]
Đinh Duy Bằng, “Thông báo thi hành án dân sự - những vấn đề từ thực tiễn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư
pháp, số 3/2011.
[5] Khoản 2 Điều 43 Luật THADS quy định: Trường hợp xác
định đương sự đang có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo
được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh,
đài truyền hình của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của địa phương đó hai
lần trong 02 ngày liên tiếp.
Trường hợp xác định đương sự không có mặt tại địa
phương nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày
trong hai số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của trung ương
hai lần trong 02 ngày liên tiếp
[6] Đinh Duy
Bằng, “Thực tiễn áp dụng quy phạm pháp luật thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư
pháp, số 12/2016.
Woww rất hay
Trả lờiXóaLuật IURA