
19/3/2018
Cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất là một biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định tại khoản 5 Điều 71 và Điều 117 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014( Luật THADS).
Biện pháp này được áp dụng khi người phải thi hành án có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất theo bản án, quyết định của Tòa án và theo quy định của pháp luật (Trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền nhưng không tự nguyện thi hành án nên bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất, sau khi bán đấu giá thành người phải thi hành án không tự nguyện chuyển giao quyền sử dụng đất cho người trúng đấu giá( hoặc người được THA đồng ý nhận quyền sử dụng đất để trừ vào số tiền được thi hành án theo khoản 2 Điều 104 Luật THADS) thì bị áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất)
Đây là một biện pháp cưỡng chế rất phức tạp mà
các cơ quan THADS thường xuyên phải áp dụng, tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật hiện nay vẫn trên còn khá nhiều vấn đề phát sinh
Quyết định số
116/2015/QĐST-HNGĐ ngày 18/10/2015 của toà án nhân dân huyện X tuyên: Bà Nguyễn
Thị A được quản lý, sở hữu và sử dụng khối tài sản chung vợ chồng bao gồm:Thửa
đất 197 có diện tích 129,5m2 có chiều dài 23,56 m, chiều rộng là 5,5m
theo hồ sơ kỹ thuật thửa đất lập ngày 05/10/2015 do CTCP kỹ thuật công nghệ Tài
nguyên Mội trường đo vẽ. Trên đất có các tài sản là sân gạch, công trình phụ
diện tích 20 m2 . Tổng giá trị tài sản là 100.000.000đ. Bà Nguyễn Thị A có
trách nhiệm thanh toán trả Ông Nguyễn Văn B số tiền là 50.000.000đ
Đây là vụ việc chia tài
sản chung vợ chồng trong đó Tòa án đã xác định rõ phần sở hữu của từng người.
Kết quả xác minh cho thấy ông Nguyễn Văn B đang quản lý, sử dụng toàn bộ phần
tài sản của cả hai vợ chồng và không tự nguyện giao phần tài sản theo bản án
tuyên cho bà Nguyễn Thị A.
Có hai quan điểm được đưa ra đối với
việc thi hành án này:
Quan điểm thứ nhất : Bản
án chỉ tuyên:“ Bà Nguyễn Thị A được quản lý, sở hữu và sử dụng khối tài sản….”
chứ không tuyên rõ nghĩa vụ buộc chuyển giao tài sản của ông Nguyễn Văn B cho
bà Nguyễn Thị A. Theo khoản 1 Điều 117 Luật THADS: “Trường hợp bản án, quyết
định tuyên nghĩa vụ chuyển giao quyền sử dụng đất thì Chấp hành viên tổ chức
giao diện tích đất cho người được thi hành án”. Do đó cơ quan thi hành án không
thể áp dụng quy định tại Điều 117 Luật THADS để cưỡng chế thi hành án đối với
ông B. Trường hợp này cần yêu cầu Tòa án giải thích bản án, tuyên rõ nội dung:
Buộc ông Nguyễn Văn B phải giao tài sản trả bà A thì mới có cơ sở để tổ chức
thi hành.
Quan điểm thứ hai: Vẫn áp
dụng được khoản 5 Điều 71 và điều 117 Luật THADS để cưỡng chế thi hành án đối
với ông B bởi vì: Trong phần Quyết định của bản án không tuyên rõ nghĩa vụ
chuyển giao quyền sử dụng đất của ông B đối với bà A nhưng Tòa án đã xác định
rõ phần tài sản của bà A trong khối tài sản chung vợ chồng. Trên thực tế ông B
đang quản lý, sử dụng phần tài sản này do đó ông B phải có nghĩa vụ chuyển giao
trả bà A phần tài sản của bà A. Do ông B không tự nguyện thi hành án nên cơ
quan THADS cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất đối
với ông B.
Trên thực tế, số lượng
các bản án chia tài sản chung vợ chồng, chia thừa kế phát sinh ngày càng nhiều,
trong đó việc Tòa án chỉ xác định cụ thể phần sở hữu của các bên mà không
tuyên rõ nghĩa vụ chuyển giao tài sản là rất phổ biến. Nếu chờ Tòa
án giải thích, đính chính bản án sẽ dẫn đến việc kéo dài thời gian tổ chức thi
hành án. Do đó cần thiết phải có quy
định cụ thể hơn nữa để xử lý đối với những trường hợp này.
Việc xử lý tài sản gắn liền với đất được chia
làm hai trường hợp phụ thuộc vào thời điểm hình thành nên tài sản:
Trường hợp tài sản gắn
liền với đất hình thành sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì Chấp hành viên yêu cầu người có
tài sản đó tháo dỡ hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao
cho người được thi hành án. Nếu người có tài sản không thực hiện thì Chấp hành
viên cưỡng chế tháo dỡ hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển
giao, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác. Chi phí cưỡng chế do người có
tài sản chịu.
Trường hợp có căn cứ xác định tài sản gắn liền
với đất có trước khi có bản án, quyết định sơ thẩm nhưng bản án, quyết định
được thi hành không tuyên rõ việc xử lý đối với tài sản đó: Cơ quan THADS yêu
cầu Toà án đã ra bản án, quyết định giải thích rõ việc xử lý đối với tài sản
hoặc đề nghị Toà án có thẩm quyền xem xét lại nội dung bản án theo thủtục giám
đốc thẩm, tái thẩm.
Khi xem xét thời điểm hình thành tài sản gắn
liền với đất đối với hai trường hợp trên, vẫn còn có một khoảng trống mà Luật
THADS chưa quy định về cách thức xử lý tài sản, đó là: khi tài sản gắn liền với
đất hình thành sau khi có bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và trước
khi có bản án phúc thẩm. Vì vậy khi gặp trường hợp người phải THA cố tình xây
dựng công trình trên đất trong khoảng thời gian Tòa án đang giải quyết theo thủ
tục phúc thẩm thì cơ quan THADS chưa có căn cứ để giải quyết.
Hoàn
thiện các quy định về việc cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất là một đòi
hỏi rất cần thiết trong thực tiễn công tác THADS hiện nay.
Hoàng Thị Thanh Hoa
(Bài đăng báo Pháp luật Việt Nam ngày 19/3/2018)
http://baophapluat.vn/tu-phap/cuong-che-chuyen-giao-quyen-su-dung-dat-trong-thi-hanh-an-dan-su-384147.html
Hoàng Thị Thanh Hoa
(Bài đăng báo Pháp luật Việt Nam ngày 19/3/2018)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét