
Theo số liệu thống kê
của Ngân hàng Thế giới, tại Việt Nam, thời gian trung bình thực thi phán quyết
của tòa án trong năm 2016 là 150 ngày và thời gian phá sản kéo dài đến 5 năm.
Thứ hạng của Việt Nam trong khối ASEAN còn khiêm tốn, xếp 6/10 về thời gian thi
hành án (THA) và 8/10 trong hiệu quả phá sản doanh nghiệp.
Điều đáng lưu ý là từ
năm 2010 đến nay, thời gian THA (150 ngày) tại Việt Nam không có bất cứ thay
đổi và cải thiện đáng kể nào. Chính sự kéo dài, trì hoãn trong thực thi công lý
dẫn đến thứ hạng còn thấp trong xếp hạng tín nhiệm của các nền kinh tế thế
giới. Do đó, một trong những thách thức lớn đang đặt ra đối với công tác THADS
hiện nay là việc rút ngắn thời gian tổ chức THA. Để thực hiện được nhiệm vụ
này, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, cụ thể như:
Giảm tải các loại văn
bản cần thông báo trong THADS: Trong quá trình tổ chức THA, có rất nhiều các
loại văn bản cần thông báo cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Tuy chưa có thống kê cụ thể về số lượng các loại văn bản cần thông báo
nhưng thực tiễn cho thấy một hồ sơ THADS (01 việc) Chấp hành viên phải tống đạt
ít nhất hai loại văn bản là Quyết định THA và giấy triệu tập. Trường hợp chỉ có
hai đương sự (01 người phải THA; 01 người được THA) thì ít nhất cũng phải tống
đạt bốn văn bản. Việc này sẽ tăng lên khi số đương sự, người liên quan nhiều và
tùy theo mức độ phức tạp của vụ việc. Mặc dù chưa có thống kê chính thức về
việc tống đạt của một chấp hành viên là bao nhiêu văn bản trên một năm.
Tuy nhiên, có thể bình
quân ở mức thấp nhất cho một Chấp hành viên là khoảng 230 việc (số liệu bình
quân của cả nước năm 2018)/01 Chấp hành viên nhân với 04 văn bản (ở mức độ
thấp) bằng 920 văn bản/năm (tương đương với số lượng tống đạt là hơn hai văn
bản/ngày/Chấp hành viên, chưa trừ ngày lễ, thứ Bảy và Chủ nhật). Như vậy có thể
thấy số lượng công việc tống đạt, thông báo cũng đã và đang ở mức báo
động.
Trong điều kiện việc
công nghệ thông tin (CNTT) đang được phát triển mạnh mẽ hiện nay, phần lớn
người dân đã sử dụng mạng internet, máy tính, điện thoại thông minh,... thì
việc đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT vào thông báo THA là rất cần thiết. Việc quy
định thông báo về THADS thông qua ứng dụng CNTT trong Luật THADS sẽ tạo cơ sở
pháp lý và điều kiện cho việc đẩy nhanh các thủ tục, rút ngắn thời gian THA.
Theo phản ánh của
nhiều cơ quan THADS, quy định về trình tự, thủ tục trong lĩnh vực THADS đang bị
hành chính hóa, làm giảm đáng kể hiệu quả công tác THA. Ví dụ, các bước định
giá, bán đấu giá hiện nay vẫn còn chiếm nhiều thời gian. Việc xác định mốc
“giảm giá bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế” (Điều 104 Luật THADS) là quá
dài, nhất là đối với những tài sản có giá trị lớn. Do đó cần quy định khống chế
về số lần bán đấu giá, hạ giá tài sản để có thể nhanh chóng giải quyết dứt điểm
vụ việc THA.
Đối với các thủ tục
hành chính khác, cần cắt giảm thủ tục hành chính và đẩy mạnh cơ chế một cửa
trong lĩnh vực THADS như giảm bớt hồ sơ, giấy tờ, yêu cầu, điều kiện không hợp
lý hoặc rút ngắn thời hạn giải quyết thủ tục.
Đẩy mạnh ứng dụng CNTT
trong quản lý, điều hành và thực hiện các thủ tục THADS. Ngay từ giai đoạn nhận
bản án, quyết định từ Tòa án, trọng tài thương mại (như nhận chuyển giao qua
phần mềm chuyển giao bản án, quyết định) hoặc bổ sung quy định về hình thức yêu
cầu THA trực tuyến, rút ngắn quá trình ra quyết định THA. Khuyến khích thực
hiện thanh toán tiền, trả lại tiền, tài sản THA bằng chuyển khoản, ứng dụng
CNTT vào công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiểm sát, giám sát trong THADS;
quản lý, xử lý tang vật; quản lý cán bộ THADS; thống kê, báo cáo và quản lý, xử
lý dữ liệu về THADS...
Cạnh đó, cần giảm bớt
một số loại giấy tờ trong hồ sơ THA. Trong một hồ sơ THA, có rất nhiều giấy tờ
phải lưu giữ như: Quyết định THA, bản án, phiếu xác định tiền, tài sản, biên
lai, phiếu thu, bảng kê nhập ngân sách, báo cáo đối chiếu kết quả THA, thông
báo thi hành xong…v.v. Thời gian để hoàn thiện các loại văn bản, giấy tờ này
chiếm rất nhiều thời gian tác nghiệp của Chấp hành viên và lãng phí ngân sách.
Do đó nên có sự rà soát lại các loại giấy tờ bắt buộc phải có trong hồ sơ và
các giấy tờ không cần thiết, hạn chế tối đa việc in ấn, thiết lập văn bản, giảm
tải công việc cho Chấp hành viên.
Hoàng Thị Thanh Hoa
Bài đăng trên báo Pháp luật Việt Nam ngày 13/02/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét