Chống copy cho Blogger

Hoàn thiện quy định về thỏa thuận thi hành án


24/6/2019
Thỏa thuận thi hành án dân sự (THADS) là sự tự nguyện của các đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhằm bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, trao đổi để đi đến thống nhất thi hành một phần hay toàn bộ nội dung bản án, quyết định dân sự trên cơ sở quyền và nghĩa vụ dân sự đã được xác lập theo bản án, quyết định dân sự đó. Thỏa thuận THADS thành công không chỉ đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự mà còn là biện pháp thi hành án hiệu quả, bảo đảm mối quan hệ hài hòa giữa các đương sự, nâng cao ý thức pháp luật của người dân.



Vấn đề thỏa thuận thi hành án được quy định tại Điều 6; Điều 7, Điều 7a Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 (Luật THADS) Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Theo Điều 6 Luật THADS, đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án (đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án). Trong khi đó, điểm c khoản 1 Điều 7 Luật THADS quy định người được thi hành án có quyền thỏa thuận với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án và điểm a khoản 1 Điều 7a Luật THADS cũng quy định người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án. Khái niệm “thỏa thuận” được hiểu là phải có sự tự nguyện, đồng ý ít nhất từ hai bên trở lên, theo quy định trên thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền thỏa thuận thi hành án với người được thi hành án và người phải thi hành án. Do vậy, đã có sự mâu thuẫn giữa quy định tại Điều 6 với Điều 7 và Điều 7a của Luật THADS về đối tượng có quyền thỏa thuận thi hành án. Ngoài ra, quy định về chủ thể thỏa thuận thi hành án tại Điều 7, Điều 7a Luật THADS cũng chưa thống nhất với các điều khoản khác có quy định về thỏa thuận trong thi hành án, ví dụ: Điểm a khoản 2 Điều 78 (Đương sự thỏa thuận việc trừ vào thu nhập của người phải thi hành án); khoản 1, khoản 2 Điều 98 (Đương sự thỏa thuận về giá, về tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá), khoản 2 Điều 103 (Đương sự có thỏa thuận khác sau khi bán đấu giá tài sản), khoản 3 Điều 135 (Đương sự thỏa thuận về việc hoàn trả tài sản, phục hồi lại quyền tài sản khi bản án quyết định đã thi hành được một phần hoặc thi hành xong nhưng bản án bị hủy, sửa). Do vậy, cần nghiên cứu bổ sung quy định thống nhất về vấn đề này. Nội dung về thỏa thuận thi hành án được hướng dẫn tại Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP. Theo đó đương sự được quyền thỏa thuận ở tất cả các giai đoạn thi hành án. Tuy nhiên trong thực tiễn, không ít những trường hợp các đương sự thoả thuận thi hành án trong quá trình đang thực hiện bán đấu giá tài sản kê biên, gây ra nhiều lúng túng cho chấp hành viên. Pháp luật hiện hành quy định rất chặt chẽ về mặt thời gian đối với trình tự thẩm định giá, bán đấu giá tài sản thi hành án. Trong trường hợp đương sự thỏa thuận thi hành án vượt quá thời gian pháp luật quy định cho quy trình thẩm định giá, bán đấu giá, nếu chấp hành viên chấp nhận thỏa thuận đó thì có vi phạm các trình tự, thủ tục thi hành án không? Mặt khác, việc chấp nhận thỏa thuận thi hành án có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng dịch vụ mà chấp hành viên đã ký với tổ chức thẩm định giá, bán đấu giá dẫn đến những hệ quả pháp lý phát sinh… Do đó cần bổ sung các quy định hướng dẫn về việc thỏa thuận thi hành án trong thời điểm cơ quan thi hành án đang thực hiện định giá, bán đấu giá tài sản thi hành án để thống nhất thực hiện. Theo khoản 4 Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, khi đương sự có yêu cầu, chấp hành viên có trách nhiệm chứng kiến và ký tên vào văn bản thỏa thuận trong trường hợp cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án hoặc đang tổ chức thi hành án. Trường hợp thỏa thuận vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội, không đúng với thực tế, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án thì chấp hành viên có quyền từ chối nhưng phải lập biên bản và nêu rõ lý do. Người yêu cầu chấp hành viên chứng kiến việc thỏa thuận ngoài trụ sở cơ quan THADS mà phát sinh chi phí thì phải thanh toán các chi phí hợp lý cho cơ quan THADS. Tuy nhiên, thế nào là chi phí hợp lý thì pháp luật chưa có giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể, ví dụ chi phí đi lại (khoảng cách bao nhiêu, chi phí như thế nào); khoảng thời gian chứng kiến và mức chi phí tương ứng… Ngoài ra, hiệu lực của việc thỏa thuận trong THADS cũng cần được pháp điển hóa, trong trường hợp đương sự vi phạm thỏa thuận (do cơ quan THADS chứng kiến) thì ngoài việc tiếp tục tổ chức theo bản án, quyết định, bên vi phạm thỏa thuận có phải chịu trách nhiệm nào khác không? Đây là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung trong thời gian tới. Thỏa thuận thi hành án là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động tổ chức thi hành án. Bên cạnh việc quy định rõ ràng hơn về cách thức ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự, cần phải quy định những chế tài cần thiết trong trường hợp đương sự cố tình vi phạm thỏa thuận thi hành án, gây thiệt hại hoặc kéo dài thời gian tổ chức thi hành án. 

ThS. HOÀNG THANH HOA
Bài đăng trên Báo Pháp Luật Việt Nam ngày 24/6/2019
https://static.baophapluat.vn/Uploaded/Edition/pdf_175_2019_QOSM.pdf

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG NỔI BẬT

SÁCH BÌNH LUẬN LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LỜI GIỚI THIỆU Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới cùng với Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu thì T hi hành án dân sự ( THADS )...