Từ khóa: Bản án, quyết định của
Tòa án; có điều kiện thi hành án; tài sản; thi hành án dân sự.
1. Tại sao việc thi hành án dân sự có điều kiện thi hành nhưng vẫn khó thi
hành và tỷ lệ thi hành được không cao?
Theo điều kiện thi hành án của người phải
thi hành án, việc thi hành án được phân loại thành việc chưa có điều kiện và
việc có điều kiện thi hành án([1]). Theo thống kê của Tổng cục Thi hành án
dân sự (THADS), trong 10 tháng năm 2021([2]), tổng số việc phải
thi hành án trong toàn quốc là gần 800 nghìn việc tương ứng với số tiền gần 284
nghìn tỷ đồng; trong đó: Số việc có điều kiện thi hành hơn 620 nghìn việc, tương
ứng với số tiền hơn 150 nghìn tỷ đồng, (chiếm 78% trong tổng số việc và 53% trong tổng số
tiền phải thi hành). Trong số có điều kiện thi hành, đã thi hành xong trên 410
nghìn việc, tương ứng với số tiền hơn 38 nghìn tỷ đồng, đạt tỷ lệ hơn 66% về việc
và trên 25% về tiền trên số việc, tiền
có điều kiện thi hành.
Có thể thấy, số việc có điều kiện
thi hành án vẫn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số việc phải thi hành án của
các cơ quan THADS, mặc dù tỷ lệ thi hành xong so với số có điều kiện xấp xỉ đạt
chỉ tiêu Quốc hội giao, nhưng tỷ lệ chưa thi hành xong vẫn còn gần 55% làm gia
tăng số chuyển kỳ sau([3]). Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cụ thể như:
Thứ nhất, số việc thụ lý mới phát sinh ngày càng nhiều với giá trị phải
thi hành án tăng cao, trong khi biên chế của các cơ
quan THADS ngày càng giảm[4]. Nhiều cơ quan THADS đang chịu áp
lực rất lớn do số lượng việc THADS tăng lên nhanh với tính chất ngày càng phức
tạp hơn và giá trị thi hành lớn, đặc biệt lớn, tính chất các vụ
việc phải thi hành án ngày càng phức tạp([5]), trong khi đó số
lượng Chấp hành viên chưa bổ sung kịp
với đà tăng về việc và tiền THADS. Theo nghiên cứu([6]), Tỷ lệ bình quân số việc THADS phải thi hành trên mỗi chấp hành
viên năm 2020 là 216 việc, tương ứng với 72 tỷ đồng/chấp hành viên/năm. Nếu
tính tỷ lệ bình quân số việc THADS mỗi chấp hành viên thụ lý mỗi năm
trong 03 năm (từ năm 2018 đến hết năm 2020) là 223 việc (tương ứng với số
tiền là 60 tỷ đồng/chấp hành viên/năm. Thực trạng này đã đặt ngành THADS đứng trước sức ép rất lớn về tình trạng quá tải trong
công việc, đặc biệt là đối với chấp hành viên ở những tỉnh, thành phố
có lượng việc THADS lớn.
Thứ hai, hiện nay, đối với
các việc THADS mới thụ lý, cơ quan THADS vẫn đang xếp vào loại việc có điều
kiện thi hành án. Tuy nhiên, việc sắp xếp này cũng chưa thật sự phù hợp, vì
nhiều việc thi hành án vẫn đang trong quá trình xác minh, thông báo thi hành
án, chưa thể xác định được việc thi hành án “có điều kiện” hay “chưa có điều
kiện thi hành” theo các tiêu chí được xác định tại Khoản 6, Điều 3 và Điều 44a
Luật THADS, chính vì vậy, số lượng việc có điều kiện thi hành án hiện nay đang
chiếm số lượng lớn, tuy nhiên, trong đó có những việc chưa xác định rõ được
tính chất “có điều kiện thi hành án” theo quy định tại Khoản, 6 Điều 3 Luật THADS.
Mặt khác, hiện nay, một số lượng lớn các án tham nhũng - kinh tế; án tín
dụng ngân hàng, mặc dù số lượng tính về việc chiếm tỷ lệ rất nhỏ, nhưng số tiền
phải thi hành rất lớn[7], số lượng việc thi hành án tín dụng, ngân hàng phải
thi hành là hơn 36 nghìn việc với hơn 129
nghìn tỷ đồng (chiếm tới 4,57% về việc và 45,49% về tiền so với tổng số việc và
tiền phải thi hành) của toàn hệ thống; số lượng án kinh tế, tham nhũng phải thi
hành là gần 4 nghìn việc, tổng số phải thi hành là hơn 70 nghìn tỷ đồng (chiếm
0,5% về việc và 25% về tiền trên tổng số việc, tiền phải thi hành). Đối với những loại
việc này, quá trình xử lý tài sản kéo dài, số tiền phải thi hành án rất lớn
nhưng giá trị tài sản để xử lý lại rất nhỏ. Tuy nhiên, cho tới khi xử lý xong
các tài sản này, toàn bộ số tiền phải thi hành án vẫn được xác định là “có điều
kiện” thi hành. Ví dụ: Vụ Huỳnh Thị Huyền Như, số tiền phải thi hành án lên tới
13.967 tỷ đồng([8]); Vụ Đinh La Thăng phải thi hành 600 tỷ đồng, nhưng tài sản để xử lý lại rất
nhỏ([9]). Như vậy, có thể
thấy, phần lớn số tiền được xác định là “có điều kiện thi hành” hiện nay vẫn
chưa phản ánh đúng thực chất điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Trong khi đó, cơ quan THADS vẫn phải “gánh” toàn bộ phần giá trị phải thi hành
án này, mà không thể tổ chức thi hành được. Điều này dẫn đến việc xác định tỷ
lệ thi hành xong về việc và về tiền trong báo cáo thống kê theo Thông tư số
06/TT-BTP còn nhiều bất cập, khi tỷ lệ thi hành án xong về việc đạt ở mức cao,
tuy nhiên tỷ lệ tiền lại đạt ở mức rất thấp (70% về việc và trên 26% về tiền
trên số việc, tiền có điều kiện thi hành)([10]).
Thứ ba, một số quy định pháp luật về THADS còn nhiều bất cập. Theo quy định
của Thông tư số 06/2019/TT-BTP, ngày 21/11/2019 của Bộ Tư pháp
quy định Chế độ báo cáo thống kê THADS, theo dõi thi hành án hành chính, thì
việc hoãn thi hành án theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 48 Luật THADS
được xếp vào loại có điều kiện thi hành án, nhưng thực tế đây là việc mà tại
thời điểm báo cáo cơ quan THADS bắt buộc phải dừng mọi hoạt động thi hành án
cho đến khi hết thời hạn các đương sự thỏa thuận hoãn. Thời gian dừng việc thi
hành án này có thể kéo dài qua nhiều kỳ báo cáo làm có số có điều kiện thi hành
án tăng tại mỗi kỳ báo cáo.
Thứ tư, một số trường hợp
có tài sản đang được chấp hành viên kê biên để bảo đảm thi hành án, nhưng có
tranh chấp, đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo Điều 74, Điều 75 Luật
THADS([11]). Tuy nhiên, trong
thực tiễn, một số trường hợp đương sự lợi dụng quyền khởi kiện
trong trường hợp tài sản kê biên bị tranh chấp để khởi kiện ra Tòa án nhằm trì
hoãn việc thi hành án, dẫn đến việc thi hành án bị kéo dài, trong khi số việc
này vẫn được xếp vào loại có điều kiện thi hành.
Thứ năm, một số trường hợp người phải thi hành
án có tài sản là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất nhưng thửa đất đó
không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không thuộc diện được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; có nhà xây trên thửa
đất lấn chiếm, đất hành lang giao thông; người phải thi hành án có nhà ở nhưng
nhà ở đó nằm trên đất của người khác và người có quyền sử dụng đất không đồng ý
kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó để thi hành án trong khi không thể tách rời
nhà và đất hoặc việc tách rời nhà và đất sẽ làm giảm đáng kể giá trị căn nhà([12])... Theo quy định tại Điều 44a Luật
THADS thì các căn cứ để ra quyết định chưa có điều kiện thi hành án không bao gồm
những trường hợp mặc dù người phải thi hành án có điều kiện thi hành (có tài sản)
nhưng lại bế tắc trong việc xử lý tài sản. Điều này, dẫn đến những trường hợp
việc thi hành án có điều kiện thi hành nhưng không thể tổ chức thi hành dứt điểm
được.
Thứ sáu, theo quy định tại Điều
104 Luật THADS thì: “Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận
tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp
tục bán đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng
chế mà người được thi hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được giao lại cho người
phải thi hành án quản lý, sử dụng…”. Hiện
nay, vẫn đang tồn đọng một số lượng lớn việc bán đấu giá tài sản nhưng không có người đăng ký mua,
cơ quan THADS phải tiến hành hạ giá, bán đấu giá nhiều lần, người được thi hành
án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án. Theo Thống kê của Tổng cục
THADS([13]), hiện nay, có trên
2.600 việc bán đấu giá tài sản không thành, với số tiền xấp xỉ 17.000 tỷ đồng;
có 1.113 việc bán đấu giá từ 02 lần trở xuống, 884 việc bán đấu giá từ 03 đến 05
lần, 449 việc bán đấu giá từ 06 lần đến 10 lần, 128 việc từ bán đấu giá từ 11 đến
15 lần, 28 việc bán đấu giá từ 16 đến 19 lần, 30 việc bán đấu giá từ 20 lần trở
lên. Điều này dẫn đến một số lượng lớn việc THADS phải tổ chức thi hành án kéo
dài, mà không thể thi hành dứt điểm được.
Thứ bảy, trong những năm qua, số lượng việc thi hành án cho các tổ chức tín dụng,
ngân hàng tăng nhanh về việc và về tiền, (năm 2020 cao gấp 1.4 lần về việc, gấp
1,5 lần về tiền so với năm 2017)([14]). Việc phải tổ chức thi hành án để thu hồi số tiền có giá trị rất lớn cho
các tổ chức tín dụng, ngân hàng cũng tạo ra áp lực lớn cho các cơ quan THADS và
Chấp hành viên. Mặc dù các cơ quan THADS đã rất nỗ lực giải quyết một số lượng
lớn án tín dụng ngân hàng, (năm 2020, thi hành xong 4.760 việc, thu được số tiền là 32.669 tỷ 964
triệu 154 nghìn đồng; 10 tháng đầu năm 2021, thi hành xong 3.857 việc tương ứng với số tiền
17.961 tỷ 471 triệu 420 nghìn đồng)([15]), tuy nhiên, quá trình tổ chức thi hành án tín dụng, ngân hàng cũng còn nhiều
vướng mắc như: Việc bán đấu giá tài sản thi hành án nhiều lần vẫn không có người
đăng ký mua; ý thức chấp hành pháp luật của công dân, tổ chức chưa cao; công
tác phối hợp của các cơ quan hữu quan trong tổ chức thi hành án chưa thực sự hiệu
quả. Đa số vụ việc xử lý tài sản bảo đảm nhưng không thu đủ số tiền phải thi
hành án cho các tổ chức tín dụng; nhiều vụ việc thi hành án phức tạp, tài sản nằm ở nhiều nơi, trong khi phải xử lý lần lượt
từng tài sản,… dẫn đến quá trình tổ chức thi hành án bị kéo dài.
Mặt khác, việc thẩm định giá trị tài sản, kiểm tra
hiện trạng tài sản thế chấp ban đầu của tổ chức tín dụng chưa đúng thực tế (diện
tích chênh lệch, tài sản thấp hơn so với nghĩa vụ bảo đảm)... Điều này gây khó
khăn cho cơ quan THADS trong việc xử lý tài sản (đo vẽ, xác định vị trí, tài sản
bảo đảm giảm giá nhiều lần không có người mua,...); Chấp hành viên phải cho
đương sự thỏa thuận việc xử lý diện tích thực tế hoặc diện
tích không bị chồng lấn, mới tiến hành kê biên, xử lý tài sản hoặc yêu cầu Tòa
án đã ra bản án, quyết định giải thích hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem
xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm... dẫn đến kéo dài thời gian tổ chức thi hành vụ việc.
Thứ tám, theo thống kê của Tổng cục THADS([16]), tính đến thời điểm báo cáo 06 tháng
năm 2021, có 181 bản án, quyết định Tòa án tuyên không rõ, khó thi hành tương ứng
với 190 quyết định thi hành án, với số tiền phải thi hành là 1.886 tỷ 158 triệu
653 nghìn đồng. Cụ thể như: Tòa án không tuyên cụ thể nghĩa vụ bảo đảm của tài
sản thế chấp của bên thứ ba trong Hợp đồng tín dụng; không đưa người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng và chậm giải thích bản án, quyết định đã
tuyên; không phân định rõ được phần quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất của
người phải thi hành án trong khối tài sản chung, không xác minh kiểm tra hiện
trạng thực tế tài sản dẫn đến khó khăn trong quá trình thi hành án... Công tác
giải thích, trả lời của Tòa án đối với bản án, quyết định tuyên không rõ, khó
thi hành còn chậm, nhiều trường hợp cơ quan THADS chưa nhận được văn bản trả lời
của Tòa án. Vẫn còn sự thiếu đồng bộ trong phối hợp
giữa cơ quan xét xử và cơ quan THADS, trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án đối với việc thi hành các bản án, quyết
định của mình còn hạn chế, dẫn đến khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án.
2. Giải pháp tháo gỡ vướng mắc đối với án có điều
kiện thi hành
Để nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án đối với
các việc thi hành án có điều kiện thi hành, cần thực hiện đồng thời một số giải
pháp như sau:
Một là, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về
THADS và các quy định pháp luật có liên quan, đặc biệt là các quy định về phân
loại việc THADS([17]). Đối với việc có điều kiện thi hành, cần xác định
rõ tiêu chí “có điều kiện thi hành” một cách cụ thể hơn, bảo đảm số liệu việc
thi hành án có điều kiện thi hành được xác định thực chất và chính xác. Đối với
việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành, đề nghị xem xét mở rộng tiêu chí
xác định việc chưa có điều kiện thi hành án đối với những trường hợp phát sinh
trong thực tiễn, mặc dù có tài sản nhưng bế tắc trong việc xử lý tài sản. Sửa đổi
một số quy định về ủy thác thi hành án tại Điều 55, 56, 57 Luật THADS đối với
trường hợp tài sản thi hành án có ở nhiều địa phương khác nhau. Đồng thời,
nghiên cứu sửa đổi các tiêu chí thống kê về tỷ lệ thi hành án xong trên số có
điều kiện thực tế, bảo đảm con số thống kê tiệm cận với thực tế và chính xác
hơn.
Hai là, nâng cao hiệu quả công tác phối hợp
giữa cơ quan THADS với các cơ quan liên quan để giải quyết khó khăn, vướng mắc, kịp thời
tổ chức thi hành án. Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS cần
phối hợp với Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan hữu quan để
thống nhất quan điểm đối với những
trường hợp pháp luật quy định chưa rõ, gặp vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật;
phối hợp với Bộ Tài chính trong việc tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc liên quan đến các khoản thuế, phí còn nợ của bên bảo đảm trong
việc chuyển nhượng tài sản khi áp dụng Nghị quyết số 42([18]) hay phối hợp với Ngân hàng Nhà nước, hội sở các ngân hàng lớn để tổ chức các
đoàn kiểm tra, phúc tra việc thi hành án liên quan đến tín dụng ngân hàng tại
những địa phương có lượng án tín dụng ngân hàng lớn, khó khăn, vướng mắc khi cần
thiết để kịp thời hướng dẫn, đôn đốc thi hành...
Ba là, phát huy vai trò trách nhiệm của
các tổ chức tín dụng, ngân hàng trong việc
phối hợp với các cơ quan THADS trong việc xác minh tài sản, điều kiện thi hành
án của người phải thi hành án; hỗ trợ cơ quan THADS trong việc tiếp nhận trông
coi, bảo quản tài sản sau khi kê biên, tìm và giới thiệu khách hàng mua tài sản
để đẩy nhanh tiến độ bán đấu giá; chủ động phối hợp cùng cơ quan THADS và Chấp hành viên tìm biện pháp giải quyết cụ thể
đối với từng hồ sơ thi hành án. Đối với
những trường hợp đương sự đã thi hành được phần lớn nghĩa vụ thi hành án theo
án tuyên, cần có chính sách miễn, giảm một phần lãi suất để có hướng giải quyết
xong vụ việc.
Bốn là, pháp luật THADS cần có cơ chế hỗ trợ Chấp hành
viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, không chỉ trong khi tổ chức cưỡng chế
thi hành án mà còn cả trong những tác nghiệp khác như thông báo thi hành án,
xác minh điều kiện thi hành án... bảo đảm an toàn cho Chấp hành viên, cũng như
tạo thuận lợi cho Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án.
Tháo gỡ những vướng mắc trong việc thi hành đối với
những việc thi hành án có điều kiện thi hành chính là “chìa khóa” để nâng cao
hiệu quả công tác THADS, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân, đem lại niềm tin của nhân dân đối với nền công lý của chế độ - một trong
những nhân tố của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN mà chúng ta đang nỗ lực xây
dựng theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.¦
ThS. Lê Hồng
Sơn, Văn phòng Chính phủ
ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa, Bộ Tư pháp
([1]) Việc chưa
có điều kiện thi hành án được xác định theo các tiêu chí quy định tại Điều 44a
Luật THADS.
([2]) Trung tâm
Thống kê, Quản lý dữ liệu và ứng dụng Công nghệ thông tin, Tổng cục THADS; Báo
cáo số 168/BC-TKDLCN, ngày 05/8/2021 báo
cáo nhanh kết quả công tác THADS 10 tháng
năm 2021 (Từ ngày 01/10/2020 đến hết 31/7/2021).
([3]) Theo Báo cáo số 168/BC-TKDLCN,
ngày 05/8/2021 của Trung tâm Thống kê dữ liệu và ứng dụng Công nghệ thông
tin, Tổng cục THADS kết quả công
tác THADS 10 tháng năm 2021 (Từ ngày
01/10/2020 đến 31/7/2021), số việc chuyển kỳ sau là 385.489 việc tương ứng với số tiền 245.640 tỷ 013 triệu 663 nghìn
đồng (chiếm 46% về việc và 86% trên tổng số tiền phải thi
hành).
[4] Xem
thêm: ThS.
Hoàng Thị
Thanh Hoa, TS.
Nguyễn Văn Nghĩa:
Định mức việc THADS đối
với chấp hành viên, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 03+04 (427+428), tháng 02/2021).
([6]) Xem thêm: ThS.
Hoàng Thị
Thanh Hoa, TS.
Nguyễn Văn Nghĩa:
Định mức việc THADS đối
với chấp hành viên, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 03+04 (427+428), tháng 02/2021).
[7] Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và ứng dụng Công
nghệ thông tin, Tổng cục THADS; Báo cáo số 168/BC-TKDLCN, ngày 05/8/2021; tlđd
([8])
Vụ Nghiệp vụ 2: Báo cáo tình hình thi hành án đối với các
vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế (Hội nghị trực tuyến ngày 20/9/2019) do Cục
THADS TP. Hồ Chí Minh tổ chức.
([9]) Nghĩa nhân; Phải thi hành 600 tỷ nhưng
ông Đinh La Thăng chỉ có 01 nhà; https://plo.vn/phap-luat/phai-thi-hanh-600-ti-nhung-ong-dinh-la-thang-chi-co-1-nha-803006.html
([10])Trung tâm
Thống kê, Quản lý dữ liệu và ứng dụng Công nghệ thông tin, Tổng cục THADS; Báo
cáo số 168/BC-TKDLCN, ngày 05/8/2021; tlđd
([11]) Điều 74 Luật THADS về
xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án; Điều 75 Luật THADS về giải
quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành
án.
([12])
Điều
95 Luật THADS quy định: Trường hợp nhà ở gắn liền với đất thuộc quyền sử dụng của
người khác thì Chấp hành viên chỉ kê biên nhà ở và quyền sử dụng đất để thi hành
án nếu người có quyền sử dụng đất đồng ý. Trường hợp người có quyền sử dụng đất
không đồng ý thì chỉ kê biên nhà ở của người phải thi hành án, nếu việc tách rời
nhà ở và đất không làm giảm đáng kể giá trị căn nhà.
([13]) Trung tâm
Thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng Công nghệ thông tin: Tổng cục THADS; Báo
cáo số 175/BC-TKDL, ngày 06/8/2021 báo cáo kết quả thống kê bán đấu giá tài sản
THADS 10 tháng năm 2021 (Từ 01/10/2020 đến 31/7/2021)
([14]) Vụ Nghiệp vụ 1: Thực trạng thi hành án tín dụng,
ngân hàng, vướng mắc từ thực tiễn và giải pháp, kiến nghị, https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=973;
ngày đăng 14/6/2021.
([15]) Trung tâm
Thống kê dữ liệu và ứng dụng Công nghệ thông tin, Tổng cục THADS: Báo cáo số 168/BC-TKDLCN, ngày 05/8/2021; tlđd.
([16]) Tổng cục THADS: Báo cáo số 216/BC-TCTHADS, ngày 01/7/2021 án tuyên
không rõ, khó thi hành 6 tháng năm 2021( Từ ngày 01/10/2020 đến 31/3/2021).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét