Tóm tắt:

Abstract: Property auction is a particularly important stage in the process of handling judgment enforcement assets. The successful auction, in accordance with the law, not only recovers the property value, ensures the interests of the involved parties, but also contributes to limiting complaints and denunciations arising. Within the scope of the article, the author analyzes difficulties and obstacles from the practical application of the law on asset auction for judgment enforcement, thereby proposing some recommendations to improve the relevant legal provisions. to this issue.
Khoản
2 Điều 5 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 quy định: “Đấu giá tài sản là hình
thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc,
trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường hợp quy định tại
Điều 49 của Luật này”. Có thể thấy, bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân
sự là hình thức mua bán đặc biệt, công khai đối với tài sản thi hành án, theo
nguyên tắc và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, người mua trả giá dựa
trên giá khởi điểm do cơ quan thi hành án xác định, người nào trả giá cao nhất
sẽ được quyền mua tài sản đấu giá[1]. Trong hoạt động thi hành án dân sự, việc
bán đấu giá tài sản được thực hiện trong hai trường hợp: Trường hợp thứ nhất là
việc chấp hành viên thực hiện ký hợp đồng bán đấu giá với tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp hoặc Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp[2];
trường hợp thứ hai là chấp hành viên tự mình thực hiện việc bán đấu giá tài sản
nhằm mục đích thu tiền để tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền khác. Việc bán đấu giá tài
sản của chấp hành viên cũng như việc ký kết hợp đồng bán đấu giá tài sản thi
hành án được thực hiện theo các quy định tại Luật Đấu giá tài sản năm 2016; các
điều 101, 102, 103, 104 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung
năm 2014, năm 2022 (Luật Thi hành án dân sự); Điều 27 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung một số điều
bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ (Nghị định số
62/2015/NĐ-CP); Điều 5 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
ngày 01/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi
hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự (Thông tư liên
tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC).
Mặc
dù, Luật Đấu giá tài sản năm 2016, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã có quy định tương đối cụ thể về việc bán đấu giá tài sản thi
hành án, tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định liên quan đến bán đấu giá
tài sản thi hành án vẫn còn gặp nhiều vướng mắc, cần được tiếp tục nghiên cứu,
hoàn thiện. Cụ thể:
Một là, về
việc lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản thi hành án:
Điều
56 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 quy định việc lựa chọn tổ chức đấu giá phải
được công khai trên Trang thông tin điện tử của mình và Trang thông tin điện tử
chuyên ngành về bán đấu giá tài sản. Điều 101 Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời hạn 10
ngày, kể từ ngày định giá”. Hướng dẫn cụ thể về nội dung này, Thông tư số
02/2022/TT-BTP ngày 08/02/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn lựa chọn tổ
chức đấu giá tài sản (Thông tư số 02/2022/TT-BTP) và Quy trình lựa chọn tổ chức
thẩm định giá, đấu giá tài sản để thi hành án kèm theo Quyết định số
1079/QĐ-TCTHADS ngày 25/12/2020 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự
đã quy định cụ thể về thời gian tiến hành thông báo và lựa chọn tổ chức đấu giá
tài sản thi hành án. Theo đó, sau khi có quyết định của người có thẩm quyền về
việc đấu giá tài sản, người có tài sản đấu giá thông báo công khai trên Trang
thông tin điện tử của mình và Cổng thông tin điện tử quốc gia về đấu giá tài
sản về việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản với đầy đủ tiêu chí quy định tại
Điều 3 và Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số 02/2022/TT-BTP. Người có tài
sản đấu giá thông báo công khai việc lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản trong
thời hạn ít nhất là 03 ngày làm việc trước ngày quyết định lựa chọn, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Luật
Thi hành án dân sự quy định trong thời hạn 10 ngày kể từ khi định giá tài sản
phải ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản. Thực tiễn cho thấy, thời hạn như
trên là quá ngắn, không đủ thời gian để chấp hành viên thực hiện thông báo và
cho các đương sự thỏa thuận[3]. Trên thực tế, trong 10 ngày làm việc kể từ ngày
định giá, chấp hành viên phải tiến hành “cùng lúc” ba công việc: Cho đương sự
thỏa thuận lựa chọn tổ chức đấu giá; thông báo công khai về việc bán đấu giá;
lựa chọn tổ chức bán đấu giá. Đây là một khoảng thời gian quá ngắn, rất khó
khăn trong quá trình thực hiện, hơn nữa, việc quy định như trên dẫn đến bị
chồng lấn về thời hạn, vì ngày định giá đã được dùng để xác định mốc thời gian
cho đương sự thỏa thuận về tổ chức bán đấu giá (trong thời hạn 05 ngày làm
việc)[4], nay lại dùng để xác định việc ký hợp đồng đấu giá của chấp hành viên
là chưa phù hợp. Mặt khác, trong trường hợp có nhiều tổ chức đăng ký tham gia
đấu giá thì chấp hành viên phải thực hiện chấm điểm tổ chức đấu giá theo các
tiêu chí đã được quy định để lựa chọn tổ chức đấu giá[5]. Do đó, tác giả đề
nghị sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự theo hướng
tăng thời hạn từ 10 ngày lên 15 ngày hoặc sửa đổi cách tính thời hạn, cụ thể
như: “Việc ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản được tiến hành trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được kết quả thẩm định giá”.
Hai là, về
việc giám sát hoạt động của tổ chức bán đấu giá và giải quyết khiếu nại, tố
cáo:
Sau
khi chấp hành viên ký kết hợp đồng bán đấu giá tài sản thi hành án với tổ chức
bán đấu giá thì tổ chức bán đấu giá sẽ độc lập thực hiện các thủ tục theo quy
định của pháp luật như thông báo, niêm yết, bán hồ sơ… và cơ quan thi hành án
dân sự chỉ giám sát việc thực hiện trên hồ sơ tài liệu do tổ chức bán đấu giá
cung cấp. Do đó, trường hợp tổ chức bán đấu giá có hành vi tiêu cực khi bán đấu
giá tài sản như hạn chế người mua hồ sơ tham gia đấu giá, không thông báo công
khai rõ ràng, thông đồng với người tham gia mua tài sản… nhằm cố tình bán đấu
giá không thành[6] để giảm giá tài sản thi hành án thì cơ quan thi hành án rất
khó phát hiện và xử lý được. Do đó, cần tăng cường hơn nữa tính chủ động của
chấp hành viên trong việc giám sát hoạt động của tổ chức bán đấu giá và quy
định rõ ràng, chặt chẽ hơn về trách nhiệm cũng như chế tài xử lý đối với đơn vị
đấu giá trong phối hợp với cơ quan thi hành án trong tổ chức bán đấu giá tài
sản thi hành án.
Bên
cạnh đó, về thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức thẩm
định giá, bán đấu giá tài sản hiện nay vẫn chưa có quy định pháp luật rõ ràng,
dẫn đến tình trạng khi đương sự nộp đơn khiếu nại về việc thẩm định giá, bán
đấu giá tài sản thi hành án, việc tách bạch trách nhiệm giải quyết khiếu nại
của cơ quan thi hành án và tổ chức đấu giá còn nhiều lúng túng. Trong thực
tiễn, có những việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của tổ chức đấu giá
nhưng tổ chức đấu giá lại yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự giải quyết và
ngược lại… dẫn đến khó khăn trong tổ chức thi hành án.
Ba là, về
thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án:
Thủ
tục bán đấu giá tài sản thi hành án hiện nay được thực hiện theo trình tự, thủ
tục chung về bán đấu giá tài sản thi hành án. Tuy nhiên, với những tính chất
riêng của tài sản thi hành án, cần có những quy định rõ hơn về hướng xử lý đối
với trường hợp phát sinh trong thực tiễn, cụ thể như:
-
Trường hợp chỉ có một người đăng ký mua hoặc chỉ có một người tham gia trả giá:
Luật Đấu giá tài sản năm 2016 chưa quy định trường hợp chỉ có một người đăng ký
mua hoặc chỉ có một người tham gia trả giá trong lần bán đấu giá đầu tiên thì
có được coi là bán đấu giá không thành hay không. Tuy nhiên, Tổng cục Thi hành
án dân sự đã có Công văn số 1447/TCTHADS-NV2 ngày 10/5/2023 về việc hướng dẫn
áp dụng khoản 1 Điều 49 Luật Đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 49 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 thì việc đấu giá tài sản
trong trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham gia
đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá chỉ được tiến hành sau khi
đã tổ chức cuộc đấu giá lần đầu nhưng không thành. Điều 52 Luật Đấu giá tài sản
năm 2016 quy định các trường hợp đấu giá không thành, trong đó có trường hợp
chưa tổ chức cuộc đấu giá (đã hết thời hạn đăng ký mà không có người đăng ký
tham gia đấu giá) và trường hợp đã tổ chức cuộc đấu giá (tại cuộc đấu giá không
có người trả giá). Tuy nhiên, xét về hiệu lực của văn bản, vẫn cần phải tiếp
tục luật hóa quy định này trong quá trình hoàn thiện thể chế.
-
Trường hợp người trúng đấu giá không nhận tài sản: Luật Thi hành án dân sự
không có quy định giải thích thế nào là người trúng đấu giá, người mua được tài
sản đấu giá trong thi hành án dân sự. Theo quy định tại Điều 5 Luật Đấu giá tài
sản năm 2016 thì “người trúng đấu giá” là cá nhân, tổ chức trả giá cao
nhất so với giá khởi điểm hoặc bằng giá khởi điểm trong trường hợp không có
người trả giá cao hơn giá khởi điểm khi đấu giá theo phương thức trả giá lên;
cá nhân, tổ chức chấp nhận mức giá khởi điểm hoặc mức giá đã giảm trong trường
hợp đấu giá theo phương thức đặt giá xuống. “Người mua được tài sản đấu
giá” là người trúng đấu giá và ký kết hợp đồng mua bán tài sản đấu giá
hoặc được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả đấu giá tài sản.
Theo
đó, có thể hiểu, người trúng đấu giá tài sản thi hành án là cá nhân, tổ chức đã
trả giá cao nhất theo phương thức trả giá lên[7]. Người mua được tài sản đấu
giá thi hành án là người đã trúng đấu giá tài sản thi hành án và ký kết hợp
đồng mua bán tài sản đấu giá hoặc được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt kết quả
đấu giá tài sản. Người trúng đấu giá, người mua được tài sản bán đấu giá có thể
là tổ chức, cá nhân và chỉ xuất hiện khi tài sản thi hành án được đưa vào bán
đấu giá.
Điều
27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định về bán đấu giá và xử lý kết quả bán đấu
giá tài sản thi hành án, tuy nhiên, pháp luật thi hành án dân sự chưa quy định
trường hợp giao tài sản bán đấu giá thành cho người mua trúng đấu giá mà họ
không nhận tài sản thì trong thời gian chờ xử lý tiếp theo, tài sản đó được
giao cho ai quản lý. Do đó, tác giả đề nghị bổ sung quy định tại khoản 3 Điều
27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP về việc giao bảo quản thi hành án đối với trường
hợp này.
Bốn là, về
xử lý tài sản bán đấu giá không thành:
Theo
quy định tại khoản 3 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự, trường hợp người được
thi hành án không đồng ý nhận tài sản để thi hành án thì chấp hành viên ra
quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã
giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án vẫn không
nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được giao lại cho người
phải thi hành án quản lý, sử dụng. Thực tiễn cho thấy, mức giảm giá “bằng hoặc
thấp hơn chi phí cưỡng chế” vẫn tạo nên thời gian thực hiện quá dài và không
hiệu quả, nhất là đối với những tài sản có giá trị lớn. Trên thực tế có những
vụ việc cơ quan thi hành án dân sự đã bán đấu giá, hạ giá hàng chục lần mà vẫn
không có người đăng ký mua, người được thi hành án cũng không nhận tài sản để
trừ vào tiền được thi hành án… Do đó, đa số quan điểm cho rằng, việc bán đấu
giá tài sản thi hành án cần khống chế về số lần bán đấu giá, hạ giá tài sản
hoặc xác định một mốc giá trị tương ứng với nghĩa vụ phải thi hành án sao cho
phù hợp để có thể nhanh chóng giải quyết dứt điểm vụ việc.
Mặt
khác, về thời điểm người được thi hành án có quyền nhận tài sản cũng nên có sự
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Theo quy định tại Điều 104 Luật Thi hành án dân
sự, từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu giá, trả
giá hoặc bán đấu giá không thành thì người được thi hành án có quyền nhận tài
sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Thực tiễn cho thấy, quy định như trên
vẫn làm kéo dài thời gian tổ chức thi hành án (vì tối thiểu là phải sau ba lần
bán đấu giá mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không
thành thì mới đáp ứng đủ điều kiện này)[8]. Do đó, nên quy định ngay từ khi có
kết quả thẩm định giá, nếu người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ
vào số tiền được thi hành án thì cần công nhận quyền nhận tài sản của họ, như
vậy sẽ rút ngắn được thời gian tổ chức thi hành án[9].
Về thủ
tục tác nghiệp khi giao lại tài sản cho người phải thi hành án trong trường hợp
giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi
hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án[10], hiện nay, pháp
luật vẫn chưa có quy định việc giao lại này được thực hiện bằng quyết định hay
bằng biên bản. Đồng thời, có thu hồi quyết định kê biên, xử lý tài sản này hay
không và nếu người phải thi hành án không còn tài sản khác để thi hành án thì
có phân loại hồ sơ là chưa có điều kiện thi hành án hay không? Có ý kiến cho
rằng, nên áp dụng tương tự khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để ra quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế,
kê biên, xử lý tài sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành
án dân sự[11] (trường hợp kê biên, xử lý tài sản cầm cố, thế chấp để thi hành
án). Đồng thời, áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, ngăn chặn chuyển dịch
đối với tài sản này. Nếu người phải thi hành án không có tài sản nào khác để
thi hành án thì nên phân loại hồ sơ vào diện chưa có điều kiện thi hành án theo
quy định tại khoản 1 Điều 44a Luật Thi hành án dân sự[12], do còn có những quan
điểm khác nhau nên cần có quy định hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này.
Trong
bối cảnh việc thi hành án ngày càng phát sinh nhiều và tăng cao về giá trị như
hiện nay, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về đấu giá tài sản thi hành án
là rất quan trọng và cần thiết, góp phần rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí
và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án.
ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa
Khoa Đào tạo các chức danh thi hành án dân sự, Học viện Tư
pháp
https://danchuphapluat.vn/ban-dau-gia-tai-san-thi-hanh-an-mot-so-van-de-phap-ly-can-hoan-thien
[1]. Xem thêm: Bùi Thị Thu Hiền, Bán đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2014.
[2]. Điều 101 Luật Thi hành án dân sự.
[3]. Theo Báo cáo số 234/BC-TKDLCN ngày 12/10/2020 cua
Trung tâm Thống kê, quản lý dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin, Tổng cục
Thi hành án dân sự về kết quả thi hành án dân sự 12 tháng năm 2020; năm 2020,
tổng số việc phải thi hành là 885.833 việc, tương ứng với số tiền trên
293.869 tỷ đồng.
[4]. Điều 98 Luật Thi hành án dân sự.
[5]. Điều 7, Điều 8 Quy trình lựa chọn tổ chức thẩm định
giá, đấu giá tài sản để thi hành án.
[6]. Khoản 1 Điều 52 Luật Đấu giá tài sản năm 2016 quy
định: “Các trường hợp đấu giá không thành bao gồm: a) Đã hết thời hạn đăng ký
mà không có người đăng ký tham gia đấu giá”.
[7]. Điều 58 Luật Đấu giá tài sản năm 2016.
[8]. Khoản 1 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự.
[9]. Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, Hồ Quân Chính, Nguyễn
Văn Nghĩa, Bình luận Luật Thi hành án Dân sự, Nxb. Tư pháp, 2019, tr. 498.
[10]. khoản 3 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự.
[11]. Khoản 3 Điều 4 Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định: Trường hợp kê biên, xử lý tài sản để
đảm bảo thi hành án theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân
sự mà giá của tài sản sau khi giảm giá không lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm
và chi phí cưỡng chế thi hành án thì người có thẩm quyền ra quyết định về thi
hành án có trách nhiệm ra ngay quyết định thu hồi quyết định cưỡng chế, kê
biên, xử lý tài sản theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 37 Luật Thi hành án
dân sự. Đồng thời, có văn bản yêu cầu người nhận cầm cố, nhận thế chấp thực
hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC.
[12]. Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, Hồ Quân Chính, Nguyễn
Văn Nghĩa, Bình luận Luật Thi hành án dân sự, Nxb. Tư pháp, 2019, tr. 498.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét