
07/9/2018
(PLO) -Tạm đình chỉ thi hành án dân sự (THADS) là việc cơ quan THADS tạm ngừng thi hành bản án, quyết định dân sự của Tòa án khi có căn cứ do pháp luật qui định. Tạm đình chỉ thi hành án có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình tổ chức thi hành án, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên đương sự.
Một là: Thủ trưởng cơ quan
THADS thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm
đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định theo
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Quy định về vấn đề này phù hợp với các quy định tại Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (TTHC).
Theo khoản 2 Điều 332 BLTTDS thì người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ
thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Người đã kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có
quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có
quyết định tái thẩm (khoản 3 Điều 354 BLTTDS). Khoản 2 Điều 261 Luật TTHC
cũng quy định: Người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án,
quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có
thẩm quyền kháng nghị, cơ quan THADS không ra quyết định tạm đình chỉ thi hành
án mà chỉ ra thông báo tạm đình chỉ thi hành án, việc ban hành thông báo được
thực hiện ngay sau khi nhận được Quyết định tạm đình chỉ.
Trường hợp bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn
bộ thì Thủ trưởng cơ quan THADS phải thông báo ngay bằng văn bản cho người đã
kháng nghị. Theo Điều 346 BLTTDS, trường hợp bản án, quyết định của tòa án đã
thi hành được một phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải
quyết hậu quả của việc thi hành án.
Hai là: Thủ trưởng cơ quan
THADS ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được thông báo của Toà án
về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành
án.
Thời hạn ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án trong trường hợp
này là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc đã
thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án. Việc tạm
ngừng thi hành án trong thời điểm này là cần thiết bởi vì khi Toà án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản thì người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác
xã… không được thanh toán bất kỳ khoản nợ cho bất kỳ chủ nợ nào, tạo thuận lợi
cho tòa án trong việc giải quyết phá sản và cho công tác THADS sau này.
Đồng thời Luật THADS cũng quy định rõ về khoản lãi suất chậm thi
hành án, trong thời gian tạm đình chỉ thi hành án do có kháng nghị thì người
phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.
Tuy nhiên, quy định về tạm đình chỉ thi hành án vẫn còn có những
điểm chưa thống nhất với những quy định khác. Ví dụ: Thủ trưởng cơ quan THADS
thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình
chỉ thi hành án của người có quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm.
Tuy nhiên, Điều 103 Luật THADS về bảo vệ quyền của người mua tài
sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án quy định: “Trường hợp người
mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản
án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan THADS tiếp tục
giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho
người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy
theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác”.
Như vậy, nếu việc thi hành án thuộc giai đoạn đã bán đấu giá thành
và chờ giao tài sản cho người trúng đấu giá mà cơ quan THADS nhận được quyết
định tạm đình chỉ thi hành án thì việc thi hành án sẽ bị tạm đình chỉ hay tiếp
tục tổ chức giao tài sản cho người trúng đấu giá?
Do đó, đề xuất quy định bổ sung thêm trường hợp ngoại lệ khi tạm
đình chỉ thi hành án đối với trường hợp giao tài sản cho người trúng đấu giá
theo quy định tại Điều 103 Luật THADS để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích của
người mua trúng đấu giá tài sản thi hành án.
Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa
Bài viết được đăng trên báo Pháp luật Việt Nam ngày 7/9/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét