30/7/2018
Trong các việc thi hành
án dân sự nói chung, đặc biệt là trong các vụ việc thi hành án tín dụng ngân
hàng nói riêng, cơ quan thi hành án dân sự thường phải tổ chức thi hành các
khoản lãi suất trên số tiền phải thi hành án. Tuy nhiên việc tổ chức thi hành án
liên quan đến khoản lãi suất trong thi hành án dân sự hiện nay còn gặp phải rất
nhiều vướng mắc.
Thứ nhất: Khó xác định phần lãi suất để thi hành
Theo quy định về lãi suất cho vay tại Điều 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015
Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 (được sửa đổi bổ sung năm
2017) và Thông tư 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thì tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo
cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng. Khi
đến hạn thanh toán mà khách hàng không trả hoặc trả không đầy đủ nợ gốc và/hoặc
lãi tiền vay theo thỏa thuận, thì khách hàng phải trả lãi tiền vay như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất cho vay đã thỏa thuận tương ứng với thời hạn
vay mà đến hạn chưa trả;
b) Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi theo quy định tại điểm a
khoản này, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do tổ chức tín dụng và
khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả
tương ứng với thời gian chậm trả;
c) Trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi
trên dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất áp dụng
không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.
Đối với các khoản vay của tổ chức tín dụng, Ngân hàng thì cách tính lãi suất và
thời điểm tính lãi suất sau khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật được
tính theo nội dung quyết định của Tòa án và thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Khi tổ chức thi hành án, Chấp hành viên phải nghiên cứu và căn cứ vào hợp đồng
tín dụng để xác định mức lãi suất này.
Ví
dụ: Bản án tuyên Anh A và chị B phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho Ngân hàng
Z toàn bộ nợ gốc và nợ lãi là 1.687.102.000đ.
Tiếp
tục duy trì hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số MCA:0011 được ký kết giữa
Ngân hàng Z với vợ chồng anh A, chị B. Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm
vụ án, các bị đơn là anh A, chị B còn phải chịu lãi suất theo thỏa thuận tại
hợp đồng cấp tín dụng số MCA: 0011 và Khế ước nhận nợ số 02 ngày 22/3/2012 được
ký giữa Ngân hàng Z với anh chị AB đối với số nợ gốc chưa thanh toán cho đến
khi anh chị AB thanh toán hết nợ gốc cho ngân hàng.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi xem xét hợp đồng tín dụng và khế ước nhận
nợ thì Chấp hành viên rất khó xác định, bởi vì những hợp đồng tín dụng và
Khế ước nhận nợ của Ngân hàng thường có rất nhiều điều khoản phức tạp với ngôn
ngữ chuyên ngành rất khó hiểu. Mặt khác, trong hợp đồng tín dụng lại có
quy định về rất nhiều loại lãi như lãi suất vay quá hạn, lãi phạt, lãi suất
chiết khấu…và mức lãi khác nhau trên số tiền vay gốc, khiến chấp hành viên
không biết phải tính theo loại lãi nào.
Thứ
hai: Quy định của pháp luật còn thiếu rõ ràng
Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc tính lãi suất đối với trường
hợp chậm thanh toán nghĩa vụ. Theo đó việc tuyên lãi suất của Tòa án được thực
hiện theo hai phương thức:
Một là: Theo thỏa thuận của đương sự: Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được
xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất
được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Hai là: Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều
468 của Bộ luật Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Trường hợp các
bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh
chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy
định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ. Dẫn chiếu
đến quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015: Trường hợp các bên
có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá
20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định
khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ
Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ
họp gần nhất.Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn
được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
Hiện nay, trong rất nhiều các bản án, quyết định của Tòa án có tuyên nội dung:“ Người được thi hành án còn phải trả cho người
phải thi hành án khoản tiền lãi khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ
luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án”. Xem xét quy định trên có thể thấy việc
tuyên áp dụng mức lãi suất theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm
2015 là rất chung chung, chưa cụ thể, dẫn đến khó khăn cho cơ quan thi
hành án dân sự khi xác định rõ mức lãi suất cần phải thi hành.
Theo Điểm a, khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì:
Theo Điểm a, khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì: “Những bản án bồi thường
thiệt hại về sức khỏe, tổn thất tinh thần, cấp dưỡng, trả lương được đưa ra thi
hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị, theo thủ tục phúc thẩm”. Như vậy những bản án này được đưa ra thi
hành ngay khi chưa có hiệu lực nhưng theo nội dung bản án thì kể từ ngày bản án
có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án mới phải thi hành phần lãi suất do
chậm thi hành án. Do đó trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự ra quyết
định thi hành án ngay khi bản án chưa có hiệu lực thì phần lãi suất có được đưa ra thi hành án ngay không? Nếu
có thì thời điểm tính lãi suất từ thời điểm nào?, thời điểm nộp đơn yêu cầu thi hành án,
thời điểm chậm thi hành án hay thời điểm án có hiệu lực pháp luật ?(1)
Mặt khác, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu
các quy định về thi hành án đối với khoản lãi suất. Mặc dù đây là nghĩa vụ
được quy định tại Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005 và hiện nay là Điều 357 Bộ
luật Dân sự năm 2015. Do đó cần phải xem xét bổ sung các quy định về việc thi
hành án đối với khoản lãi suất trong quá trình sửa đổi bổ sung Luật Thi hành án
dân sự.
Mặt khác, Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu
các quy định về thi hành án đối với khoản lãi suất. Mặc dù đây là nghĩa vụ
được quy định tại Điều 305 Bộ luật Dân sự năm 2005 và hiện nay là Điều 357 Bộ
luật Dân sự năm 2015. Do đó cần phải xem xét bổ sung các quy định về việc thi
hành án đối với khoản lãi suất trong quá trình sửa đổi bổ sung Luật Thi hành án
dân sự.
Thứ ba: Lãi
suất chậm thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước
Trong thực tiễn có rất nhiều bản án, quyết định tuyên lãi suất chậm thi hành án
đối với các khoản án phí, tiền phạt…thu nộp ngân sách nhà nước. Có những khoản
phải thi hành có giá trị không lớn (dưới 5 triệu đồng) nhưng cũng có
lãi suất chậm thi hành án kèm theo. Tuy nhiên việc thi hành khoản lãi suất này
cũng gặp nhiều khó khăn khi rất nhiều trường hợp người phải thi hành án không
có điều kiện kinh tế, không có tiền để nộp, chấp hành viên đôn đốc thu được
khoản tiền gốc đã là rất nan giải. Do đó đối với các khoản phải thi hành án
khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị không lớn (có thể xác định mức dưới
5 triệu đồng) thì đề nghị pháp luật có quy định rõ về việc không tuyên lãi chậm
thi hành án.
Thứ tư: Chưa quy định rõ đối với khoản lãi suất khi xét
miễn giảm thi hành án
Theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch số
12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài
chính, TAND tối cao, VKSND tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành
án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước thì lãi suất chậm thi hành án
của các khoản thu, nộp cho ngân sách nhà nước cũng thuộc diện được xét
miễn, giảm thi hành án. Thực tiễn hiện nay việc thi hành án đối với phần lãi suất chậm thi
hành án đối với các khoản thu, nộp ngân sách nhà nước là rất khó khăn. Người
phải thi hành án thuộc diện được xét miễn, giảm các khoản thu, nộp ngân sách
nhà nước là người không có tài sản hoặc là người không có thu nhập hoặc có thu
nhập chỉ đảm bảo cuộc sống tối thiểu nên việc thi hành cả tiền gốc và tiền lãi
là điều khó có thể thực hiện được.
Trong thực tiễn, vẫn còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất về việc áp dụng
pháp luật đối với khoản lãi suất chậm thi hành án. Quan điểm thứ nhất cho rằng
cần phải tính khoản lãi suất chậm thi hành án là một khoản riêng, độc lập với
khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước để xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành
án theo quy định.Quan điểm thứ hai cho rằng khoản lãi suất chậm thi hành án
được tuyên kèm theo khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước nên khi xét
miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án thì phải cộng gộp cả khoản lãi suất với khoản
nghĩa vụ phải thi hành cho ngân sách nhà nước để tính. Do chưa có hướng dẫn cụ
thể trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn nên các cơ quan thi
hành án dân sự còn gặp nhiều khó khăn trong việc rà soát các hồ sơ thi hành án
đủ điều kiện xét miễn giảm. Mặt khác, khoản tiền lãi suất chậm thi hành án nếu
để trong một thời gian dài (5 hoặc 10 năm) để đủ điều kiện xét miễn giảm
thì khoản lãi suất trên là không nhỏ, thậm chí còn có những trường hợp lớn hơn
cả nghĩa vụ phải thi hành án cho ngân sách nhà nước ban đầu,
Ví dụ: Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 61 Luật Thi hành án
dân sự nếu khoản phải thi hành án cho ngân sách nhà nước dưới 2.000.000đ và hết
thời hạn 5 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án hoặc khoản phải thi hành án
cho ngân sách nhà nước từ 2.000.000đ đến dưới 5.000.000đ và hết thời hạn 10 năm
kể từ ngày ra quyết định thi hành án thì được xét miễn thi hành án. Tuy nhiên ,
trong quá trình tổ chức thi hành án có trường hợp khoản phải thi hành án dưới 2
triệu đồng nhưng sau khi cộng cả khoản lãi suất sau 5 năm thì vượt quá 2 triệu
đồng. Để đủ điều kiện xét miễn nghĩa vụ thi hành án thì phải hết 10 năm.(2)
Do đó cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc áp dụng xét miễn, giảm thi hành án
đối với khoản lãi suất này. Cá nhân tác giả ủng hộ quan điểm có thể xem xét bỏ
quy định về việc miễn, giảm lãi chậm thi hành án đối với
khoản được miễn giảm (nếu có) thay vào đó nên quy định như khoản 2
Điều 26 của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP trước đây đó là khi khoản
nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định được miễn, giảm thì phần lãi
chậm thi hành án trên số tiền được miễn, giảm đương nhiên được miễn(3)
Có thể thấy việc tính lãi suất theo bản án, quyết định là một vấn đề rất phức
tạp, cần có sự nghiên cứu, trao đổi, phối hợp để có phương án giải quyết cụ
thể. Đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng vay, đề xuất bổ sung quy định Tòa án
phải tuyên rõ mức lãi suất trên số tiền phải thanh toán trả nợ trong bản án để
cơ quan thi hành án có cơ sở tính lãi suất một cách chính xác nhất. Đối với các
số tiền thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị nhỏ thì không tuyên lãi suất đồng
thời cần quy định rõ hơn về việc xử lý khoản lãi suất trong việc xét miễn giảm
thi hành án. Hoàn thiện các quy định về lãi suất sẽ góp phần giảm bớt
những khó khăn trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự.
Trong thực tiễn, vẫn còn có nhiều quan điểm chưa thống nhất về việc áp dụng
pháp luật đối với khoản lãi suất chậm thi hành án. Quan điểm thứ nhất cho rằng
cần phải tính khoản lãi suất chậm thi hành án là một khoản riêng, độc lập với
khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước để xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành
án theo quy định.Quan điểm thứ hai cho rằng khoản lãi suất chậm thi hành án
được tuyên kèm theo khoản phải thi hành cho ngân sách nhà nước nên khi xét
miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án thì phải cộng gộp cả khoản lãi suất với khoản
nghĩa vụ phải thi hành cho ngân sách nhà nước để tính. Do chưa có hướng dẫn cụ
thể trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn nên các cơ quan thi
hành án dân sự còn gặp nhiều khó khăn trong việc rà soát các hồ sơ thi hành án
đủ điều kiện xét miễn giảm. Mặt khác, khoản tiền lãi suất chậm thi hành án nếu
để trong một thời gian dài (5 hoặc 10 năm) để đủ điều kiện xét miễn giảm
thì khoản lãi suất trên là không nhỏ, thậm chí còn có những trường hợp lớn hơn
cả nghĩa vụ phải thi hành án cho ngân sách nhà nước ban đầu,
Ví dụ: Đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 61 Luật Thi hành án
dân sự nếu khoản phải thi hành án cho ngân sách nhà nước dưới 2.000.000đ và hết
thời hạn 5 năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án hoặc khoản phải thi hành án
cho ngân sách nhà nước từ 2.000.000đ đến dưới 5.000.000đ và hết thời hạn 10 năm
kể từ ngày ra quyết định thi hành án thì được xét miễn thi hành án. Tuy nhiên ,
trong quá trình tổ chức thi hành án có trường hợp khoản phải thi hành án dưới 2
triệu đồng nhưng sau khi cộng cả khoản lãi suất sau 5 năm thì vượt quá 2 triệu
đồng. Để đủ điều kiện xét miễn nghĩa vụ thi hành án thì phải hết 10 năm.(2)
Do đó cần có hướng dẫn cụ thể hơn về việc áp dụng xét miễn, giảm thi hành án
đối với khoản lãi suất này. Cá nhân tác giả ủng hộ quan điểm có thể xem xét bỏ
quy định về việc miễn, giảm lãi chậm thi hành án đối với
khoản được miễn giảm (nếu có) thay vào đó nên quy định như khoản 2
Điều 26 của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP trước đây đó là khi khoản
nghĩa vụ được xác định trong bản án, quyết định được miễn, giảm thì phần lãi
chậm thi hành án trên số tiền được miễn, giảm đương nhiên được miễn(3)
Có thể thấy việc tính lãi suất theo bản án, quyết định là một vấn đề rất phức
tạp, cần có sự nghiên cứu, trao đổi, phối hợp để có phương án giải quyết cụ
thể. Đối với các vụ án tranh chấp hợp đồng vay, đề xuất bổ sung quy định Tòa án
phải tuyên rõ mức lãi suất trên số tiền phải thanh toán trả nợ trong bản án để
cơ quan thi hành án có cơ sở tính lãi suất một cách chính xác nhất. Đối với các
số tiền thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị nhỏ thì không tuyên lãi suất đồng
thời cần quy định rõ hơn về việc xử lý khoản lãi suất trong việc xét miễn giảm
thi hành án. Hoàn thiện các quy định về lãi suất sẽ góp phần giảm bớt
những khó khăn trong thực tiễn công tác thi hành án dân sự.
Ths.Hoàng
Thị Thanh Hoa
Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, Hà Nội
Bài viết đăng trên Cổng
Thông tin điện tử Tổng cục THADS ngày 30/7/2018
1. Chuyên đề tổng hợp những khó khăn vướng mắc trong thi hành án dân sự và kiểm sát thi hành án dân sự, tài liệu Hội nghị Nghê An, tổ chức tháng 7/20172. Tổng cục Thi hành án dân sự, “Một số giải pháp nhăm giải quyết khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành phần dân sự trong các bản án Hình sự”, Tài liệu Hội thảo: về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn được tổ chức tại Hải Phòng, ngày 26.1.2018, trang 693. Văn Thị Tâm Hồng,
Thực tiễn áp dụng quy định về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với các khoản
thu nộp ngân sách nhà nước;http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=895;
ngày đăng: 30/6/2018; trc: 26/7/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét