
18/6/2018
Theo quy định tại Điều 31 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014( Luật THADS) thì đương sự có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu thi hành án bằng hình thức trực tiếp nộp đơn hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn qua bưu điện. Người yêu cầu phải nộp bản án, quyết định, tài liệu khác có liên quan. Tuy nhiên Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành lại chưa quy định cụ thể về các tài liệu đương sự cần nộp kèm theo khi yêu cầu thi hành án, dẫn đến việc áp dụng quy định này hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn
Đối với tài liệu là bản
án, quyết định: Khi yêu cầu thi hành án, người yêu cầu phải nộp kèm theo bản
án, quyết định của tòa án nhân dân( những bản án, quyết định của tòa án được
thi hành quy định tại Điều 2 Luật THADS); Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh(QĐXLVVCT)
của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh( đối với trường hợp yêu cầu thi hành QĐXLVVCT)
và phán quyết của Trọng tài thương mại(PQTT) đối với trường hợp yêu cầu thi
hành phán quyết của trọng tài thương mại.
Về tài liệu khác có
liên quan: Hiện nay Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định
rõ “ tài liệu khác có liên quan” là
những tài liệu gì. Trên thực tế áp dụng, các tài liệu khác mà đương sự phải
cung cấp có thể là: Giấy tờ tùy thân (giấy chứng minh nhân dân nếu là cá nhân,
giấy chứng minh là người có thẩm quyền đại diện cho tổ chức), Giấy ủy quyền (trong
trường hợp ủy quyền)...
Đối với trường hợp yêu
cầu thi hành PQTT: Theo Khoản 1 Điều 66 Luật Trọng
tài thương mại năm 2010(Luật TTTM), nếu hết thời hạn thi hành PQTT mà bên phải
thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ PQTT
theo quy định tại Điều 69 của Luật TTTM, bên được thi hành phán quyết có quyền
làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành. Vì vậy, để xác định điều
kiện tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS phải căn cứ vào nội dung
này để xác định hai vấn đề: Một là đã hết thời hạn thi hành phán quyết; Hai là
bên phải thi hành phán quyết có yêu cầu Tòa án hủy PQTT hay không. Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên
được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành PQTT
sau khi phán quyết được đăng ký tại Tòa án theo quy định tại Điều 62 của Luật
TTTM. Để có thể tiếp nhận đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan THADS phải yêu cầu
đương sự chứng minh việc PQTT đã được đăng ký tại Tòa án.
Như vậy,
khi nộp đơn yêu cầu thi hành PQTT người yêu cầu phải chứng minh tình trạng pháp
lý của phán quyết. Trên thực tế, việc xác nhận tình trạng pháp lý của PQTT gặp
nhiều khó khăn, có những trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xác
nhận tình trạng pháp lý của PQTT không nhận được câu trả lời từ phía Tòa án, dẫn
tới khó khăn trong việc yêu cầu thi hành án. Mặt khác việc xác định tình trạng
pháp lý của PQTT là trách nhiệm của cơ quan THADS hay của đương sự còn chưa được
quy định rõ.
Đối với QĐXLVVCT: Theo quy định của
Luật THADS thì đối tượng được tổ chức thi hành án là QĐXLVVCT khi đáp ứng đủ điều kiện: sau 30 ngày, kể từ ngày QĐXLVVCT có hiệu lực pháp luật mà đương sự không tự nguyện thi
hành, không khởi kiện tại Tòa án. Tuy nhiên Luật THADS
cũng
chưa quy định cụ thể trách nhiệm chứng minh việc QĐXLVVCT có bị khởi kiện tại Toà án là trách nhiệm của đương sự hay của cơ
quan THADS. Do đó khi yêu cầu thi
hành án đối với PQTT và QĐXLVVCT vẫn
còn có nhiều quan điểm khác nhau về các tài liệu nộp kèm theo khi yêu cầu thi
hành án.
Về hình thức của các loại
giấy tờ kèm theo yêu cầu thi hành án. Các tài liệu này bắt buộc phải là “bản chính” hay có thể chỉ là“bản sao” và bản sao thì cơ quan nào thực
hiện việc chứng thực bản sao được công nhận, hiện nay Luật THADS và các văn bản
hướng dẫn cũng chưa quy định về vấn đề này.
Theo quy định tại Điều 269 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án là cơ
quan có thẩm quyền cấp bản sao bản án dưới hình thức trích lục: “Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày kết
thúc phiên tòa các đương sự sẽ được Tòa án cấp trích lục bản án nếu có yêu cầu”.
Do đó, đối với bản án, quyết định của Tòa án phải do Tòa án thực hiện dưới hình
thức trích lục.
Đối với quyết định là phán quyết của Trọng tài thương mại, và QĐXLVVCT của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh thì Luật chưa quy định
cụ thể tài liệu này là bản chính hay bản sao và bản sao đó có được chứng thực tại
các cơ quan có thẩm quyền chứng thực theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 16/02/2015 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực
bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch hay
không.
Việc Luật THADS chưa
quy định và hướng dẫn cụ thể về vấn đề này gây ra khó khăn cho người dân khi yêu
cầu thi hành án và việc áp dụng pháp luật tại các cơ quan THADS cũng chưa có sự
thống nhất.
Với mục
đích nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân và cải cách toàn diện thủ tục hành
chính , việc quy định cụ thể các loại văn bản, giấy tờ kèm theo yêu cầu thi
hành án là rất quan trọng và cần thiết.
Ths.Hoàng Thị Thanh Hoa
Bài viết đăng trên báo Pháp Luật Việt Nam ngày 18/6/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét