30/1/2018
Bảo quản tài sản thi hành án sau khi kê biên, đặc biệt đối với tài sản là quyền sử dụng đất là một vấn đề không hề đơn giản. Thực tế đã có những trường hợp hiện trạng tài sản bị thay đổi sau khi kê biên gây khó khăn rất lớn cho quá trình tổ chức thi hành án.
Theo Bản án số 305/DSST ngày 03/7/2015 của TAND huyện X thì bà Nguyễn Thị B, trú tại: thôn V, xã Y, huyện X, phải thanh toán trả bà Nguyễn Thị A số tiền: 3.000.000.000đ (Ba tỷ đồng)
Bảo quản tài sản thi hành án sau khi kê biên, đặc biệt đối với tài sản là quyền sử dụng đất là một vấn đề không hề đơn giản. Thực tế đã có những trường hợp hiện trạng tài sản bị thay đổi sau khi kê biên gây khó khăn rất lớn cho quá trình tổ chức thi hành án.
Theo Bản án số 305/DSST ngày 03/7/2015 của TAND huyện X thì bà Nguyễn Thị B, trú tại: thôn V, xã Y, huyện X, phải thanh toán trả bà Nguyễn Thị A số tiền: 3.000.000.000đ (Ba tỷ đồng)
Kết quả
xác minh điều kiện thi hành án cho thấy bà B có tài sản là quyền sử
dụng đất diện tích 70m2 tại thửa đất số 321, tờ bản đồ số 3 ở thôn V, xã Y, huyện X. Bà Nguyễn Thị B có đơn đề
nghị cơ quan THADS kê biên mảnh đất nói
trên để thi hành án trả bà A.
Cơ
quan THADS đã tiến hành kê biên quyền sử dụng đất và áp dụng quy định tại Điều
58; Điều 112 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 tạm giao tài sản kê biên cho người
phải thi hành án( bà Nguyễn Thị B)
quản lý. Tuy nhiên, sau khi kê biên, một số chủ nợ khác của bà B đã xây dựng
trên mảnh đất kê biên 01 ngôi nhà tạm. Chính
quyền địa phương và hộ liền kề khẳng định bà B không phải là người đã xây dựng trên diện tích
đất kê biên, nhưng đồng thời chính quyền địa phương cũng không xác định được ai
là người đã xây dựng ngôi nhà tạm đó. Khi cơ quan thi hành án nhận được phản
hồi từ phía người phải thi hành án, tiến hành lập biên bản xác minh hiện trạng tài
sản đã kê biên thì được địa phương xác nhận “có
nhà tạm xây trên đất nhưng không xác
định được người xây dựng”.
Từ ví
dụ trên có thể thấy một số vấn đề pháp lý như sau:
Thứ nhất, trách nhiệm của người được
giao bảo quản tài sản:
Theo
khoản 5 điều 58 Luật THADS sửa đổi,
bổ sung năm 2014: Người được giao bảo
quản tài sản vi phạm quy định của pháp luật trong việc bảo quản tài sản thì tuỳ
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy
định của pháp luật.
Bà Nguyễn
Thị B là người được giao bảo quản tài sản nhưng lại không quản lý được tài sản
được giao, để xảy ra việc người khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đã kê biên.
Có thể thấy một phần yếu tố “lỗi” của bà B trong trường hợp này. Tuy nhiên bà
B không phải là người trực tiếp có hành
vi vi phạm các quy định của pháp luật
trong việc bảo quản tài sản đã kê biên do
đó không có đủ căn cứ để xử phạt vi phạm hành chính đối với bà B theo quy định tại Điều 52 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, THADS, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
Khoản 4 Điều 112 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 mới chỉ quy
định đối với các hành vi do người được tạm giao quản lý tài sản trực tiếp thực
hiện như: không được chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng
cho, để thừa kế, thế chấp,góp vốn, thay đổi hiện trạng… nhưng thiếu quy
định về trách nhiệm giám sát, quản lý của người được giao bảo quản tài sản kê
biên. Để tránh trường hợp chính người được tạm giao bảo quản gián tiếp vi phạm
như thuê, nhờ người khác xây dựng nhằm cản trở, gây khó khăn, kéo dài thời gian
thi hành án. Cần bổ sung quy định về trách nhiệm quản lý, giám sát của người
được giao bảo quản tài sản đã kê biên và chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm khi
để xảy ra tình trạng thay đổi hiện trạng tài sản kê biên.
Theo Điều 175 Luật
THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014,
Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân (UBND)cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
phối hợp với Chấp hành viên và cơ quan THADS trong việc thông báo thi hành án,
xác minh điều kiện thi hành án, áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế
thi hành án và các nhiệm vụ khác về THADS trên địa bàn.
Trong trường hợp này, khi có sự việc xây dựng
trái phép trên đất đã kê biên, UBND cấp xã đã không thực hiện việc lập biên bản
tại hiện trường vi phạm để xử lý hành vi vi phạm. Có thể thấy, UBND xã đã không làm
hết trách nhiệm của mình, Tuy nhiên pháp luật hiện chưa có các quy định ràng
buộc trách nhiệm UBND xã khi để xảy ra tình trạng trên. Do đó bên cạnh trách
nhiệm của người được giao bảo quản tài sản kê biên, cần xem xét việc bổ sung
các quy định pháp lý về trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quản
lý tài sản đã kê biên.
Thứ ba: Phương thức xử lý đối với tài
sản trên đất.
Điều
113 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: Đối với tài sản có sau khi kê
biên, nếu người có tài sản không di chuyển tài sản hoặc tài sản không thể di
chuyển được thì tài sản phải bị tháo dỡ. Chấp hành viên tổ chức việc tháo dỡ
tài sản, trừ trường hợp người nhận quyền sử dụng đất hoặc người trúng đấu giá
quyền sử dụng đất đồng ý mua tài sản.
Người
có tài sản gắn liền với đất của người phải thi hành án được hoàn trả tiền bán
tài sản, nhận lại tài sản, nếu tài sản bị tháo dỡ nhưng phải chịu các chi phí
về kê biên, định giá, bán đấu giá, tháo dỡ tài sản. Tuy nhiên, cần xem xét bổ sung quy định về việc xử lý tài sản trên
đất sau khi kê biên trong trường hợp không xác định được người đã xây dựng tài
sản để có phương án xử lý phù hợp và thống nhất.
Việc bảo quản tài sản thi hành án
sau khi kê biên đặc biệt là quyền sử dụng đất một vấn đề đặc biệt quan trọng. Cần
thiết phải có các chế tài pháp lý đủ mạnh để xử lý đối với các hành vi vi phạm này,
đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
Hoàng Thị Thanh Hoa
(Bài viết đăng trên Báo Pháp luật Việt Nam ngày 30/1/2018)
http://baophapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/thay-doi-hien-trang-tai-san-la-quyen-su-dung-dat-sau-khi-ke-bien-378195.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét