
23/2/2018
Vấn đề thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại (TTTM) được quy định tại Chương X Luật TTTM năm 2010; Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 (Luật THADS)và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo quy định tại Điều 1, Điều 2 Luật THADS và Điều 67 Luật TTTM năm 2010 thì phán quyết trọng tài(PQTT) được thi hành theo quy định của pháp luật về THADS và thẩm quyền thi hành phán quyết, quyết định của TTTM thuộc về cơ quan THADS.
Theo Báo cáo số 74/BC-BTP ngày 08/4/2016 của Bộ Tư pháp, số PQTT được thi hành mới đạt 60% trong tổng số đơn yêu cầu cơ quan THADS thi hành PQTT. Số vụ việc được thi hành chưa cao do nhiều nguyên nhân, về mặt thể chế, có thể kể đến một số bất cập như sau:
Một là: Thủ tục tiếp nhận và thụ lý PQTT:
Theo Điều 66 Luật TTTM, hết thời hạn thi hành PQTT mà
bên phải thi hành không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ PQTT, bên
được thi hành PQTT có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi
hành. Tuy nhiên ngày PQTT có hiệu lực không phải
là ngày PQTT được đưa ra thi hành
tại cơ quan THADS. Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 61 Luật TTTM năm 2010,
trong PQTT có nội dung“Thời
hạn thi hành phán quyết”. Do đó để xác định điều kiện tiếp nhận đơn yêu
cầu THA, cơ quan THADS phải xác định hai vấn đề: Một là đã hết thời hạn thi
hành PQTT; Hai là bên phải thi hành PQTT có yêu cầu Tòa án hủy PQTT hay không, từ đó mới có
căn cứ để tiếp nhận và thụ lý vụ việc.
Trên thực tế, việc xác nhận tình trạng pháp lý của PQTT gặp
nhiều khó khăn, nhiều trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xác nhận
phán quyết nhưng chậm có kết quả hoặc không có kết quả, dẫn tới yêu cầu thi
hành PQTT gặp trở ngại. Việc xác định tình trạng pháp lý của PQTT là trách
nhiệm của cơ quan THADS hay của đương sự cũng chưa được quy định rõ ràng.
Liên quan đến vấn đề này, tại Kiến nghị số 1680/PTM - VP ngày 14/07/2017 của Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam(VIAC)nêu
rõ: một trong những bất cập khi nộp đơn yêu cầu thi hành PQTT là việc Cơ
quan THADS yêu cầu đương sự phải cung cấp giấy xác nhận của Tòa án về việc thụ
lý giải quyết đơn yêu cầu hủy PQTT. Trong khi Tòa án lại không có bất kỳ quy
trình hay thủ tục nào để cấp giấy xác nhận này. Việc phụ thuộc vào Tòa án cấp
giấy xác nhận đã hạn chế quyền và lợi ích chính đáng của bên được thi hành PQTT.
Mặt khác, đây là một thủ tục hành chính độc lập, phải thực hiện trước khi nộp
hồ sơ đến cơ quan THADS, dẫn đến quy trình yêu cầu thi hành PQTT bị tăng gấp
đôi về thủ tục.
Hai là: Thời hiệu yêu cầu thi hành PQTT
Theo Điều
30 Luật THADS thời hiệu yêu cầu THA là 5 năm kể từ ngày bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật. Theo khoản 5 Điều 61 Luật
TTTM thì PQTT là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành. Tuy
nhiên, Điều 66 Luật TTTM năm 2010 lại quy định: Đối với phán quyết của
Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan THADS có
thẩm quyền thi hành PQTT sau khi PQTT được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật TTTM,
thời hạn đăng ký là 1 năm kể từ ngày ban hành phán quyết. Vậy thời hiệu yêu cầu
thi hành án được tính bắt đầu từ thời điểm nào là chính xác: kể từ ngày có PQTT hay từ khi PQTT
đó được đăng ký tại tòa án? Sự không thống nhất giữa các quy định pháp luật đã
khiến cho thời hiệu thi hành PQTT vụ việc chỉ còn chưa được 4 năm kể từ ngày PQTT
có hiệu lực chứ không phải là 5 năm.
Ba là: Thẩm quyền thi hành PQTT:
Theo
Luật TTTM, cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi Hội đồng
trọng tài ra phán quyết có thẩm quyền thi hành PQTT. Theo Báo
cáo số 74/BC-BTP ngày 08/4/2016 của Bộ Tư pháp, riêng trong năm 2015, các trung tâm trọng tài đã giải
quyết được 1.255 vụ. Trong đó, VIAC đã thụ lý, giải quyết 226 vụ, trung bình
gần 60 vụ/năm; Trung tâm Trọng tài thương mại TP. Hồ Chí Minh thụ lý, giải
quyết 291 vụ, trung bình hơn 70 vụ/năm. Các trung tâm trọng tài khác chỉ giải
quyết từ 5 đến 10 vụ/năm. Có thể thấy nơi các Hội đồng trọng tài ra phán quyết chủ yếu là tại Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh. Điều này dẫn tới khó khăn cho các doanh nghiệp không có
trụ sở kinh doanh tại hai thành phố này khi nộp đơn yêu cầu THA. Mặt khác, khi
tổ chức thi hành thì cơ quan THADS lại ủy thác cho cơ quan THADS nơi bên phải
thi hành có trụ sở hoặc tài sản. Từ đó cần xem xét nên mở rộng phạm vi thẩm
quyền thi hành PQTT, bao gồm cả cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nơi bên phải thi hành PQTT có tài sản hoặc có trụ sở chính để giảm tải cho
các cơ quan THADS nơi tập trung nhiều vụ việc Trọng tài và cũng tạo điều kiện
thuận lợi hơn cho bên được thi hành án.
Bốn
là:Việc yêu cầu hủy PQTT: Việc
yêu cầu hủy PQTT được quy
định tại Chương XI Luật TTTM năm 2010 và Điều 14 Nghị Quyết số
01/2014/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy
định của Luật TTTM năm 2010, trong đó quy định cụ thể về căn cứ, trình tự thủ
tục yêu cầu và xem xét hủy PQTT. Tuy
nhiên lại thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp một bên yêu
cầu hủy PQTT nhưng không được Tòa án công
nhận và việc kéo dài thời gian thi hành PQTT gây ra thiệt hại đối với bên được thi hành. Do đó cần quy định chặt chẽ
hơn nữa về việc yêu cầu hủy PQTT và ràng
buộc trách nhiệm đối với bên yêu cầu hủy PQTT nhằm hạn chế tối đa việc lợi dụng quyền yêu cầu hủy PQTT để kéo dài thời gian thi hành án.
Thi hành PQTT có
ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của các bên đương sự, thực
thi pháp luật nghiêm minh, tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng, cải thiện
môi trường đầu tư và góp phần phát triển nền kinh tế. Do đó việc hoàn thiện các
quy định pháp luật về thi hành PQTT là vô cùng cần thiết.
Hoàng Thị Thanh Hoa
(Bài đăng trên báo Pháp luật Việt Nam ngày 23/02/2018)http://baophapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/thi-hanh-phan-quyet-cua-trong-tai-thuong-mai-380619.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét