22/02/2018 |
Tổ chức thi hành án dân sự đối
với đương sự là phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù trong trại giam, trại tạm
giam là một công việc rất khó khăn, phức tạp, không chỉ đối với những việc phạm nhân là người phải
thi hành án mà còn cả đối với những việc thi hành án trả lại tiền, tài sản,
giấy tờ mà phạm nhân là người được thi hành án.
Thủ tục trả lại tiền, tài sản, giấy tờ cho người
được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam, trại tạm giam được quy
định cụ thể tại Điều 129 Luật THADS năm 2008 và Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC
ngày 06/02/2013 hướng dẫn trình tự,
thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải thi hành án dân sự và trả
tiền, giấy tờ cho người được thi hành án dân sự là phạm nhân (gọi tắt là Thông
tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC).
Các quy định của pháp luật đã quy định khá chi tiết
về trình tự, thủ tục thực hiện việc trả lại tiền, tài sản, giấy tờ cho người
được thi hành án là phạm nhân. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định trên
còn gặp rất nhiều bất cập, cụ thể là:
Theo quy định tại
khoản 1 Điều 129 Luật THADS năm 2008 thì Chấp hành viên gửi thông báo, quyết định
về việc nhận lại tiền, tài sản cho người được thi hành án đang chấp hành hình
phạt tù thông qua Giám thị trại giam, trại tạm giam. Tuy nhiên, việc xác định
trại giam, trại tạm giam của đương sự là phạm nhân không phải lúc nào cũng được
thực hiện một cách dễ dàng, thuận lợi.
Ví dụ: Tại Bản án số 51/2016/HSST
ngày 17/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện X xét xử Nguyễn Văn A về tội “tàng trữ
trái phép chất ma túy” tuyên Nguyễn Văn A phải chịu 28 tháng tù.
Đồng thời Nguyễn Văn A phải chịu 200.000đ án phí
Hình sự sơ thẩm; trả lại Nguyễn Văn A 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell
màu xanh đã cũ.
Qua xác minh, bố mẹ của Nguyễn Văn A đều đã
chết, vợ của A đang làm thủ tục ly hôn và không hề biết A đang ở trại giam nào,
chính quyền địa phương cũng không nắm được. Đối với khoản án phí hình sự
sơ thẩm của Nguyễn Văn A, Chi cục Thi hành án huyện X đã vận động một
người họ hàng của Nguyễn Văn A nộp thay. Tuy nhiên, đối với khoản trả lại tài
sản cho Nguyễn Văn A thì cơ quan THADS gặp trở ngại khi không có một nguồn
thông tin nào cho biết A đang thụ hình tại trại giam nào. Khi chấp hành viên
giải quyết việc thi hành án, ngoài các thông tin trong bản án và khai thác từ
gia đình, chính quyền địa phương thì không có nguồn thông tin nào cho biết được
địa chỉ trại giam của đương sự nếu như cơ quan THADS không nhận được thông báo
của trại giam nơi phạm nhân thụ hình.
Tình trạng không xác định được địa chỉ trại giam
nơi đương sự chấp hành hình phạt tù là một tình trạng khá phổ biến mà các cơ
quan THADS thường gặp phải[1]. Mặc dù Điều 3 Thông
tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC đã quy định rõ: “Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án hình sự, Công an cấp
huyện có trách nhiệm thông báo cho cơ quan Thi hành án dân sự nơi Tòa án đã xét
xử sơ thẩm họ, tên, địa chỉ của phạm nhân là người phải thi hành án dân sự hoặc
phạm nhân là người được thi hành án theo bản án hình sự, trong thời hạn 15
(mười lăm) ngày, kể từ ngày tiếp nhận phạm nhân vào trại giam.” Tuy
nhiên, việc thực hiện quy định trên ở nhiều nơi vẫn còn chưa nghiêm túc. Khi
chấp hành viên tổ chức thi hành án, thông tin duy nhất về người phải thi hành án
là phạm nhân mà chấp hành viên có thể nắm được chỉ có ở bản án, ngoài ra chấp
hành viên phải tự tìm hiểu và xác định trại giam nơi người được thi hành án
chấp hành hình phạt tù. Chấp hành viên phải gửi Công văn đề nghị Tổng cục VIII Bộ
Công an cho biết địa chỉ trại giam của đương sự. Nhiều trường hợp việc xác minh
này chậm có kết quả hoặc không có kết quả, cá biệt có những trường hợp cơ quan
THADS nhận được công văn của Tổng cục VIII trả lời về việc không xác định được
trại giam nào có phạm nhân có tên và địa chỉ như trong yêu cầu của cơ quan
THADS. Hành trình xác định trại giam đôi khi rất gian nan và mất nhiều thời
gian của Chấp hành viên, làm giảm hiệu quả thi hành án
Một là: Trường hợp phạm nhân là người được THADS có
đơn đề nghị được nhận tiền, giấy tờ tại trại giam, cơ quan THA hình sự Công an
cấp huyện. Khoản 1
Điều 10 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC quy định: Trường hợp phạm
nhân là người được THADS có đơn đề nghị được nhận tiền, giấy tờ tại trại giam,
cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện thì trại giam, cơ quan Thi hành
án hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm thông báo cho cơ quan THADS biết;
trong thời hạn 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan
THADS có trách nhiệm gửi tiền, giấy tờ cho Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án hình sự Công an cấp huyện để tiến hành việc trả tiền, giấy tờ
cho phạm nhân là người được THADS theo quyết định trả tiền, giấy tờ.
Trong
thời hạn 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày nhận được tiền, giấy tờ do cơ quan
THADS, Chấp hành
viên gửi đến, trại giam, cơ quan Thi hành án hình sự Công an cấp
huyện tiến hành trả tiền, giấy tờ cho phạm nhân là người được THADS theo quyết
định trả tiền, giấy tờ.
Chi
phí cho việc gửi tiền, tài sản do người được thi hành án chịu. Khi giao tiền,
tài sản cho đương sự, Giám thị trại giam, trại tạm giam lập biên bản và gửi cho
cơ quan THADS. Việc trả tiền THADS phải lập Phiếu chi tiền theo mẫu quy định của
Bộ Tài chính. Trường hợp trả giấy tờ thì phải lập biên bản trả giấy tờ theo mẫu
2d tại Phụ lục II của Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC[2].
Tuy
nhiên, nhiều phạm nhân có trình độ hiểu biết hạn chế, cá biệt còn có cả những
phạm nhân không biết chữ, việc quy định phạm nhân có đơn xin nhận tiền, giấy tờ
trong trại giam đã là một quy định nặng tính thủ tục, lại quy định thêm việc “cơ
quan THA hình sự Công an cấp huyện có trách nhiệm thông báo cho cơ quan THADS
biết” trong khi cơ quan THA hình sự công an cấp huyện có rất nhiều công việc phải
làm, việc chờ thông báo của cơ quan THA hình sự cho cơ quan THADS liệu có thực
sự khả thi?
Hai là: Trường hợp người được thi hành án uỷ quyền cho người
khác nhận tiền, tài sản.
Theo
quy định tại khoản 1 Điều 129 Luật THADS năm 2008: Trường hợp người được THA uỷ
quyền cho người khác nhận tiền, tài sản thì văn bản uỷ quyền phải có xác nhận của
Giám thị trại giam, trại tạm giam. CHV trả tiền, tài sản cho người được uỷ quyền.
Khoản
3 Điều 10 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC cũng quy định trường hợp
phạm nhân là người được THADS ủy quyền cho người khác nhận thay tiền, giấy tờ
thì Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan THA hình sự Công an cấp huyện có
trách nhiệm xác nhận vào giấy ủy quyền và gửi giấy ủy quyền cho người được ủy
quyền; người được ủy quyền nhận tiền chịu trách nhiệm gửi giấy ủy quyền đó cho
cơ quan THADS, Cơ quan THADS có trách nhiệm trả tiền, giấy tờ cho người được uỷ
quyền theo quy định của pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp trả lại tiền, giấy tờ, tài
sản cho người được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù giam nếu người nhà
muốn đến nhận thay phải có giấy uỷ quyền của người đang chấp hành án trong trại
giam. Để có được giấy uỷ quyền để trả tài sản cho người nhận uỷ quyền đôi khi
cũng là một việc rất khó khăn[3].
Trên thực tế có những Bản án tuyên trả lại duy
nhất một cái quần bò, một cái ví cũ, một con dao, một cái chậu nhôm đã cũ hay
một cái điện thoại không còn sử dụng được...Đây là những vụ việc quá khó để thi
hành xong khi mà đương sự thì ở trong trại giam, người nhà đương sự thì chẳng
ai muốn đến nhận những thứ đồ “lặt vặt”, không còn giá trị sử dụng, nhất là khi
họ lại cư trú ở các tỉnh xa với nơi xử án. Có những trường hợp cơ quan THADS
đã hướng dẫn phạm nhân thực hiện được việc ủy quyền nhưng người được uỷ quyền
lại không đến nhận tài sản vì cho rằng tài sản có giá trị quá nhỏ không đáng để
bỏ công sức và thời gian để đến nhận lại.
Khoản
3 Điều 129 Luật THADS năm 2008 quy định: Trường hợp người được thi hành án đang
chấp hành hình phạt tù từ chối nhận lại tiền, tài sản bằng văn bản có xác nhận
của Giám thị trại giam, trại tạm giam thì Chấp hành viên xử lý tiền, tài sản để
sung quỹ nhà nước hoặc tiêu huỷ theo quy định của Luật này.
Khoản 4 Điều
10 Thông tư Liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC cũng quy định:Trường hợp phạm nhân
là người được THADS và không phải là người phải THADS mà từ chối nhận tiền, giấy
tờ thì Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan THA hình sự Công an cấp huyện có
trách nhiệm xác nhận vào văn bản từ chối đó và gửi cơ quan THADS đã chuyển giao
quyết định THA để tiến hành các thủ tục xử lý theo quy định của pháp luật.
Như vậy để tiêu hủy một tài sản mà
người được thi hành án là phạm nhân không nhận do đã hư hỏng, không còn giá trị
sử dụng thì người được thi hành án là phạm nhân phải có văn bản từ chối nhận
tài sản, đề nghị tiêu hủy và đơn từ chối đó có xác nhận của giám thị trại giam
để cơ quan Thi hành án xử lý theo quy định pháp luật. Việc quy định phạm nhân
phải có văn bản từ chối nhận tài sản cũng dẫn đến việc kéo dài thời gian thi
hành án. Do đó, có thể xem xét quy định trong một thời hạn nhất định nếu phạm
nhân đã được thông báo về việc nhận tiền, tài sản mà không ủy quyền cho người
nhà đến nhận hoặc không thể thực hiện việc trả tài sản thì Chấp hành viên xử lý tiền, tài sản để
sung quỹ nhà nước hoặc tiêu huỷ theo quy định của Luật THADS.
Mặt khác, đối với quy định tại khoản 2 Điều 11 Thông tư liên
tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC “Chi phí cho việc
gửi tiền, giấy tờ cho phạm nhân do phạm nhân chi trả” cũng là một quy định rất
khó có thể thực hiện trên thực tế, nhất là đối với những số tiền, tài sản có
giá trị nhỏ, hoặc trả giấy tờ cho phạm nhân khi mà phạm nhân thường không có điều
kiện, tài sản để thi hành đối với những khoản chi phí này. Do đó nên quy định
các chi phí này do ngân sách nhà nước chi trả từ nguồn phí thi hành án được
trích lại theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Thông tư liên tịch số
07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC.
Giải pháp để tháo gỡ khó khăn, nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ quan Thi hành án dân sự trong việc thi hành án mà người
được thi hành án là phạm nhân cần phải thực hiện đồng bộ và triệt để, cụ thể
như sau:
Thứ nhất: Thông tư Liên tịch số
07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC chỉ quy định hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản
lý tiền, giấy tờ có giá hoặc giấy tờ khác (gọi chung là giấy tờ) của phạm nhân
là người phải thi hành án dân sự hoặc thân nhân của họ tự nguyện nộp tại trại
giam, trại tạm giam (gọi chung là trại giam), cơ quan thi hành án hình sự Công
an cấp huyện để thi hành án dân sự; trả tiền, giấy tờ cho phạm nhân là người được
thi hành án dân sự tại trại giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện;
trách nhiệm của trại giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ
quan thi hành án dân sự trong việc thi hành phần quyết định dân sự trong bản
án, quyết định hình sự[4]. trong khi đó số lượng các việc thi hành án phải trả
lại các tài sản khác cho phạm nhân là rất lớn, do đó cần xem xét bổ sung các
quy định về việc phối hợp giữa trại giam, trại tạm giam với cơ quan THADS trong
việc trả lại đối với những tài sản khác để thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
Thứ hai: Cần tăng cường hơn nữa cơ chế phối hợp
giữa cơ quan THADS và trại giam. Yêu cầu các trại giam, trại tạm giam thực hiện
tốt việc thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự
nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm họ, tên, địa chỉ của phạm nhân là người phải thi
hành án dân sự hoặc phạm nhân là người được thi hành án dân sự theo bản án hình
sự, trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tiếp nhận phạm nhân vào trại
giam theo quy định tại Điều 3 Thông tư Liên tịch số
07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC. Bộ Công an cần tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy
định này nói riêng và các quy định của Thông tư nói chung và có phương án xử lý
đối với các trường hợp trại giam không thực hiện việc thông báo cho cơ quan
THADS về nơi chấp hành hình phạt tù của phạm nhân là người phải thi hành án,
người được thi hành án dân sự.
Thứ ba: Mặc dù khoản 4 Điều 4 Thông tư Liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC quy định: Trường hợp phạm nhân là người được
thi hành án dân sự thì cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp chuyển tiền cho người
được thi hành án thông qua Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc chuyển vào tài khoản tạm gửi của trại giam, cơ quan thi
hành án hình sự Công an cấp huyện. Đối với giấy tờ khác thì cơ quan thi hành án dân sự chuyển giao cho Giám thị trại
giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để trả lại cho phạm nhân là người được thi hành án. Tuy nhiên, quy
định này của Thông tư lại không áp dụng đối với các tài sản khác. Do đó, cần
xem xét bổ sung quy định rõ đối với những trường hợp đã xác định được chính xác
địa chỉ trại giam, cơ quan THADS thực hiện luôn việc chuyển trả tài sản vào trại
giam để trại giam tiến hành trả cho phạm nhân mà không cần các thủ tục như đơn
xin nhận tài sản, ủy quyền nhận tài sản…. để rút ngắn thời gian thi hành án.
Thứ tư: Tại điểm c Điều 106, Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm
2015 quy định: Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được
thì bị tịch thu và tiêu hủy. Do đó, đối với những tài
sản, vật chứng không có giá trị, giá trị nhỏ hoặc hư hỏng thì Tòa án nên tuyên
tiêu hủy đối với vật chứng đó, không nên tuyên trả lại cho bị cáo, nhất là khi
bị cáo phải chịu hình phạt tù giam với thời gian dài. Cần có quy định thống
nhất giữa quá trình xét xử với việc xem xét xử lý các tài sản, tang vật của vụ
án để thuận lợi cho giai đoạn thi hành án dân sự. Việc này sẽ giúp giảm tải đáng kể cho các cơ
quan THADS và góp phần tiết kiệm thời gian, nhân lực, chi phí của Nhà nước.
Thứ năm: Đề nghị xem xét bổ sung khoản 3 Điều 169 Luật
THADS năm 2008, về nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Công an. Theo đó, ngoài quy định chỉ
đạo trại giam, trại tạm giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành hình
phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà người phải thi hành án, thân nhân của
người phải thi hành án nộp để thi hành án, nên bổ sung quy định về việc chỉ đạo
trại giam, trại tạm giam có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Thi hành án dân sự
trong việc trả lại tiền, tài sản cho người được thi hành án là phạm nhân để
tăng cường sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan trực thuộc Bộ Công an với các
cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án trả lại tiền, tài sản, giấy
tờ cho người được thi hành án là phạm nhân.
Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa
(Bài viết đăng trên Cổng thông tin Tổng cục THADS ngày 22/2/2018)
http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/NghienCuuTraoDoi/View_Detail.aspx?ItemID=857
[1] Xem
thêm: Nguyễn Linh Anh, Những khó khăn trong việc trả tiền, tài sản, giấy tờ cho
người được thi hành án là phạm nhân, http://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/tuthuctien/view_detail.aspx?itemid=276, ngày đăng: 01/8/2013.
[2] Khoản 2 Điều 10 Thông tư
liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét