Chống copy cho Blogger

Tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án: Tiếp tục hoàn thiện quy định


03/01/2020
Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự là một trong các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được quy định tại Điều 69 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 (Luật THADS); Điều 18 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP).

 Khó khăn từ thực tiễn Theo Điều 68 Luật THADS, chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà đương sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng. Các tài sản, giấy tờ bị tạm giữ là các tài sản, giấy tờ có liên quan đến việc thi hành án như: xe mô tô, giấy đăng ký xe mô tô, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… hoặc các tài sản có thể xử lý được để thi hành án. Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm động sản và bất động sản. Luật không quy định rõ biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ áp dụng với tài sản là động sản hay bất động sản. Trong thực tế, chấp hành viên thường áp dụng biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ với động sản bởi vì động sản là loại tài sản rất dễ bị tẩu tán nên cần ưu tiên áp dụng biện pháp này để ngăn chặn việc đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Còn Điều 68 Luật THADS quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của chấp hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ. Trong trường hợp cần thiết, chấp hành viên yêu cầu lực lượng công an hoặc tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ việc tạm giữ tài sản, giấy tờ để thi hành án (khoản 1 Điều 18 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Tuy nhiên, luật lại chưa có cơ chế bảo đảm việc chấp hành viên thực hiện quyền về quyền yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản, giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Quá trình thực hiện quy định này phát sinh một số khó khăn như: khi đương sự chống đối, chấp hành viên đề nghị lực lượng công an hỗ trợ để thực hiện việc tạm giữ tài sản nhưng nhiều trường hợp bị lực lượng công an từ chối với lý do theo quy định của Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an về việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS chỉ quy định về phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS, còn việc hỗ trợ chấp hành viên trong việc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án như tạm giữ tài sản, giấy tờ… lại chưa có văn bản quy định nên không cử lực lượng tham gia. Cần hướng dẫn cụ thể Mặt khác, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về trình tự thực hiện trong các trường hợp này. Đối với trường hợp cần huy động lực lượng công an tham gia hỗ trợ khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án thì trình tự thủ tục thực hiện ra sao? Chi phí thực hiện sẽ được trích từ nguồn nào? Có cần lập kế hoạch trước (tương tự như kế hoạch cưỡng chế thi hành án) không?... Do đó cần nghiên cứu bổ sung quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan hữu quan, đặc biệt là cơ quan công an trong việc phối hợp, hỗ trợ chấp hành viên trong việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án nói chung và việc tạm giữ tài sản, giấy tờ của người phải thi hành án nói riêng. Theo khoản 4 Điều 68 Luật THADS, chấp hành viên yêu cầu đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Tuy nhiên, điều luật chưa quy định rõ thời hạn để đương sự, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Đề nghị xem xét bổ sung quy định về thời hạn thực hiện quyền khởi kiện của đương sự trong trường hợp này. Trường hợp cần thiết, chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định người có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ (khoản 4 Điều 68 Luật THADS). Tuy nhiên, trong trường hợp chấp hành viên yêu cầu tòa án xác định người có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ thì tòa án sẽ thụ lý yêu cầu của chấp hành viên ra sao và tư cách tham gia tố tụng cũng như vai trò của chấp hành viên sẽ như thế nào…? Đa số ý kiến cho rằng cần tiếp tục có những quy định hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này.

 HOÀNG THỊ THANH HOA
Bài đăng trên báo Pháp luật Việt Nam ngày 03/01/2020

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG NỔI BẬT

SÁCH BÌNH LUẬN LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LỜI GIỚI THIỆU Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới cùng với Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu thì T hi hành án dân sự ( THADS )...