Chống copy cho Blogger

Hoàn thiện một số vấn đề về xác định việc chưa có điều kiện thi hành án

15/01/2020

Theo khoản 6 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự (THADS) sửa đổi bổ sung năm 2014 thì “có điều kiện thi hành án” là trường hợp người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Theo đó, việc chưa có điều kiện thi hành án là trường hợp người phải thi hành án không có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản; không thể tự mình hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án.
Vấn đề xác định việc chưa có điều kiện thi hành án được quy định tại Điều 44a Luật THADS; Điều 9, Điều 11 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS. Trong thực tiễn, vấn đề xác định việc chưa có điều kiện thi hành án còn một số vướng mắc. Trước hết, cần mở rộng hơn về tiêu chí xác định việc chưa có điều kiện thi hành án. Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp khác ngoài các trường hợp được quy định tại Điều 44a Luật THADS mà cơ quan THADS không thể xử lý tài sản nhưng cũng không thể phân loại án sang dạng án chưa có điều kiện thi hành. Chẳng hạn như trường hợp người phải thi hành án có tài sản là nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất nhưng đất mà người đó đang sử dụng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; người phải thi hành án có nhà ở song nhà ở đó nằm trên đất của người khác và người có quyền sử dụng đất không đồng ý kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó để thi hành án trong khi không thể tách rời nhà và đất... Một trường hợp khác là khi người phải thi hành án có tài sản là nhà đất, cơ quan THADS đã kê biên xử lý tài sản nhưng bán đấu giá, hạ giá nhiều lần nhưng vẫn không bán được tài sản (do giá trị tài sản đã giảm thấp hơn chi phí cưỡng chế), cơ quan THADS đã giao lại cho người phải thi hành án (theo khoản 3 Điều 104 Luật THADS). Mặc dù đã hết thời hạn 10 năm, nhưng vẫn không thể thực hiện được việc xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án do các trường hợp trên vẫn thuộc diện “có tài sản” nên không thể phân loại chưa có điều kiện thi hành án theo Điều 44a Luật THADS. Do đó, nội hàm của Điều 44a cần được nghiên cứu mở rộng hơn. Cần bổ sung thêm quy định đối với việc phân loại án chưa có điều kiện thi hành trong trường hợp mặc dù người phải thi hành án có tài sản nhưng bế tắc trong việc xử lý tài sản. Bởi vì đối với những việc thi hành án này các cơ quan THADS hiện đang gặp phải rất nhiều khó khăn, không thể phân loại vào dạng án chưa có điều kiện thi hành theo Điều 44a Luật THADS, nhưng nếu để ở án có điều kiện thi hành thì lại bị tồn đọng kéo dài, ảnh hưởng đến kết quả công tác THADS. Ngoài ra là vấn đề xác minh định kỳ đối với việc chưa có điều kiện thi hành án. Theo khoản 5 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐCP, cơ quan THADS chuyển sang sổ theo dõi riêng đối với việc chưa có điều kiện thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi có đủ các điều kiện: Đã hết thời hạn 02 năm, kể từ ngày ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án đối với trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án hoặc đã hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án; Đã xác minh ít nhất hai lần theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật THADS; Không có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Theo khoản 2 Điều 44 Luật THADS, đối với các trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thì ít nhất 06 tháng một lần, chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan THADS phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Tuy nhiên, để xác định thời hạn tiến hành xác minh tiếp trong thực tế cũng gặp nhiều khó khăn do thời gian bắt đầu chấp hành hình phạt tù thực tế của phạm nhân không thể hiện trong bản án mà được xác định theo quyết định thi hành án phạt tù của cơ quan thi hành án hình sự. Nhiều trường hợp cơ quan THADS không xác định được chính xác thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại của đương sự là bao lâu để tiến hành xác minh định kỳ theo quy định.

 HOÀNG THANH HOA
Bài đăng trên Báo Pháp luật Việt Nam ngày 15/1/2020
https://static.baophapluat.vn/Uploaded/Edition/pdf_015_2020_DQSO.pdf

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

BÀI ĐĂNG NỔI BẬT

SÁCH BÌNH LUẬN LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LỜI GIỚI THIỆU Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới cùng với Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu thì T hi hành án dân sự ( THADS )...