
Theo khoản 6 Điều 3 Luật
Thi hành án dân sự
(THADS) sửa đổi bổ
sung năm 2014 thì “có điều kiện
thi hành án” là trường hợp
người phải thi hành án có tài
sản, thu nhập để thi hành nghĩa
vụ về tài sản; tự mình hoặc
thông qua người khác thực hiện
nghĩa vụ thi hành án. Theo đó,
việc chưa có điều kiện thi hành
án là trường hợp người phải thi
hành án không có tài sản, thu
nhập để thi hành nghĩa vụ về tài
sản; không thể tự mình hoặc
thông qua người khác thực hiện
nghĩa vụ thi hành án.
Vấn đề
xác định việc chưa có điều kiện
thi hành án được quy định tại
Điều 44a Luật THADS; Điều 9,
Điều 11 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật THADS.
Trong thực tiễn, vấn đề xác định
việc chưa có điều kiện thi hành
án còn một số vướng mắc.
Trước hết, cần mở rộng hơn
về tiêu chí xác định việc chưa có
điều kiện thi hành án. Trong thực
tế, có rất nhiều trường hợp khác
ngoài các trường hợp được quy
định tại Điều 44a Luật THADS
mà cơ quan THADS không thể
xử lý tài sản nhưng cũng không
thể phân loại án sang dạng án
chưa có điều kiện thi hành.
Chẳng hạn như trường hợp
người phải thi hành án có tài sản là
nhà ở, công trình xây dựng gắn liền
với đất nhưng đất mà người đó
đang sử dụng không có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và cũng
không thuộc diện được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật; người phải
thi hành án có nhà ở song nhà ở đó
nằm trên đất của người khác và
người có quyền sử dụng đất không
đồng ý kê biên, xử lý quyền sử
dụng đất đó để thi hành án trong khi
không thể tách rời nhà và đất...
Một trường hợp khác là khi
người phải thi hành án có tài sản
là nhà đất, cơ quan THADS đã kê
biên xử lý tài sản nhưng bán đấu
giá, hạ giá nhiều lần nhưng vẫn
không bán được tài sản (do giá trị
tài sản đã giảm thấp hơn chi phí
cưỡng chế), cơ quan THADS đã
giao lại cho người phải thi hành
án (theo khoản 3 Điều 104 Luật
THADS). Mặc dù đã hết thời hạn
10 năm, nhưng vẫn không thể
thực hiện được việc xét miễn
giảm nghĩa vụ thi hành án do các
trường hợp trên vẫn thuộc diện
“có tài sản” nên không thể phân
loại chưa có điều kiện thi hành án
theo Điều 44a Luật THADS.
Do đó, nội hàm của Điều 44a
cần được nghiên cứu mở rộng
hơn. Cần bổ sung thêm quy định
đối với việc phân loại án chưa có
điều kiện thi hành trong trường
hợp mặc dù người phải thi hành
án có tài sản nhưng bế tắc trong
việc xử lý tài sản. Bởi vì đối với
những việc thi hành án này các cơ
quan THADS hiện đang gặp phải
rất nhiều khó khăn, không thể
phân loại vào dạng án chưa có
điều kiện thi hành theo Điều 44a
Luật THADS, nhưng nếu để ở án
có điều kiện thi hành thì lại bị tồn
đọng kéo dài, ảnh hưởng đến kết
quả công tác THADS.
Ngoài ra là vấn đề xác minh
định kỳ đối với việc chưa có điều
kiện thi hành án. Theo khoản 5
Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐCP, cơ quan THADS chuyển sang
sổ theo dõi riêng đối với việc chưa
có điều kiện thi hành án trong thời
hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi có
đủ các điều kiện: Đã hết thời hạn
02 năm, kể từ ngày ra quyết định
về việc chưa có điều kiện thi hành
án đối với trường hợp người đang
chấp hành hình phạt tù mà thời
gian chấp hành hình phạt tù còn lại
từ 02 năm trở lên hoặc không xác
định được địa chỉ, nơi cư trú mới
của người phải thi hành án hoặc đã
hết thời hạn 01 năm, kể từ ngày ra
quyết định về việc chưa có điều
kiện thi hành án; Đã xác minh ít
nhất hai lần theo quy định tại
khoản 2 Điều 44 Luật THADS;
Không có thông tin mới về điều
kiện thi hành án của người phải thi
hành án.
Theo khoản 2 Điều 44 Luật
THADS, đối với các trường hợp
người phải thi hành án chưa có
điều kiện thì ít nhất 06 tháng một
lần, chấp hành viên phải xác minh
điều kiện thi hành án. Trường hợp
người phải thi hành án chưa có
điều kiện thi hành án là người
đang chấp hành hình phạt tù mà
thời gian chấp hành hình phạt tù
còn lại từ 02 năm trở lên hoặc
không xác định được địa chỉ, nơi
cư trú mới của người phải thi hành
án thì thời hạn xác minh ít nhất 01
năm một lần. Sau hai lần xác minh
mà người phải thi hành án vẫn
chưa có điều kiện thi hành án thì
cơ quan THADS phải thông báo
bằng văn bản cho người được thi
hành án về kết quả xác minh.
Tuy nhiên, để xác định thời
hạn tiến hành xác minh tiếp trong
thực tế cũng gặp nhiều khó khăn
do thời gian bắt đầu chấp hành
hình phạt tù thực tế của phạm
nhân không thể hiện trong bản án
mà được xác định theo quyết định
thi hành án phạt tù của cơ quan thi
hành án hình sự. Nhiều trường
hợp cơ quan THADS không xác
định được chính xác thời gian
chấp hành hình phạt tù còn lại của
đương sự là bao lâu để tiến hành
xác minh định kỳ theo quy định.
HOÀNG THANH HOA
Bài đăng trên Báo Pháp luật Việt Nam ngày 15/1/2020
https://static.baophapluat.vn/Uploaded/Edition/pdf_015_2020_DQSO.pdf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét