10/02/2020

Việc ủy quyền được quy định tại Điều
138 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS). Còn
theo điểm h khoản 1 Điều 7 Luật
THADS, người được THA có quyền ủy
quyền cho người khác thực hiện quyền,
nghĩa vụ của mình. Người được ủy quyền
có thể là luật sư, trợ giúp viên pháp lý,
hoặc bất kỳ người khác có đủ năng lực và
điều kiện để thực hiện việc ủy quyền.
Việc xác lập văn bản ủy quyền, cũng như
các vấn đề pháp lý có liên quan về ủy
quyền của người được THA sẽ thực hiện
theo quy định tại BLDS và các quy định
pháp luật khác có liên quan.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 31
Luật THADS, bên cạnh cách thức tự
mình thực hiện quyền yêu cầu THA,
người được THA, người phải THA còn
có thể thực hiện quyền yêu cầu THA
thông qua việc ủy quyền. Đương sự có
quyền ủy quyền cho người khác yêu cầu
THA bằng hình thức trực tiếp nộp đơn
hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn
qua bưu điện.
Người được THA có quyền tự mình
hoặc ủy quyền cho người khác xác minh,
cung cấp thông tin về điều kiện THA của
người phải THA (điểm đ khoản 1 Điều 7
Luật THADS). Theo đó, người được
THA có quyền ủy quyền cho luật sư, thừa
phát lại hoặc người khác để thực hiện
việc xác minh điều kiện THA của người
phải THA.
Đối với việc ủy quyền của người phải
THA là phạm nhân, khoản 6 Điều 4 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP quy định:
Trường hợp phạm nhân là người phải
THA, thân nhân của họ hoặc người được
họ ủy quyền yêu cầu THA tự nguyện nộp
tiền, tài sản THA khi đã hết thời hiệu yêu
cầu THA thì cơ quan THADS không ra
quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu
THA... Pháp luật cũng quy định về
trường hợp người phải THA ủy quyền khi
xuất cảnh.
Tuy nhiên, Luật THADS không có
quy định cụ thể về hình thức ủy quyền
trong THADS nên việc thực hiện còn
nhiều vướng mắc. Khi tiếp nhận các văn
bản về ủy quyền của đương sự, mỗi cơ
quan THADS, mỗi chấp hành viên, công
chức thi hành án có những nhận thức và
cách thực hiện khác nhau. Còn nhiều
quan điểm chưa thống nhất về hình thức
pháp lý của giao dịch ủy quyền; về việc
khi nào thì lập giấy ủy quyền và khi nào
cần phải lập hợp đồng ủy quyền; thẩm
quyền chứng thực giấy ủy quyền, công
chứng, chứng thực văn bản ủy quyền…
Do đó, Luật THADS và các văn bản
hướng dẫn thi hành cần quy định rõ văn
bản ủy quyền được sử dụng trong
THADS là loại văn bản nào, hình thức và
cơ quan có thẩm quyền xác nhận văn bản
ủy quyền để thống nhất thực hiện.
Về việc ủy quyền với đương sự là
phạm nhân, theo Điều 129 Luật THADS,
trường hợp người được THA là phạm
nhân uỷ quyền cho người khác nhận tiền,
tài sản thì văn bản uỷ quyền phải có xác
nhận của Giám thị trại giam, trại tạm
giam. Chấp hành viên trả tiền, tài sản cho
người được uỷ quyền. Tuy nhiên trong
thực tiễn, việc thực hiện quy định này khá
nhiêu khê vì việc xin xác nhận của trại
giam vào đơn xin nhận tài sản hoặc giấy
ủy quyền gặp rất nhiều khó khăn, mất
nhiều thời gian tổ chức THA…
Do đó, đa số quan điểm cho rằng đối
với việc ủy quyền của phạm nhân cần có
phương án đơn giản hơn. Việc xin giấy
ủy quyền có xác nhận của trại giam chỉ
nên áp dụng đối với trường hợp tài sản
có giá trị lớn, đối với các tài sản có giá
trị nhỏ (ví dụ dưới 2 triệu đồng) hoặc
các loại giấy tờ thì không nên áp dụng
quy định này. Với tài sản có giá trị nhỏ,
người thân của phạm nhân có thể xin
xác nhận của chính quyền địa phương
về nhân thân để thay mặt phạm nhân đến
nhận tài sản tại cơ quan THADS. Điều
này cũng sẽ giản tiện bớt thủ tục và tạo
thuận lợi cho chấp hành viên trong quá
trình tác nghiệp.
Thực tiễn cho thấy cần tiếp tục hoàn
thiện, bổ sung, tạo sự liên kết, dẫn chiếu
chặt chẽ lẫn nhau giữa các quy định của
pháp luật THADS và các lĩnh vực pháp
luật chuyên ngành khác có liên quan…
để đương sự thực hiện đầy đủ, kịp thời,
có hiệu quả quyền của mình trong việc
ủy quyền cho người khác thực hiện
quyền, nghĩa vụ THA.
Bài đăng trên Báo Pháp luật Việt Nam số 41 ngày 10/2/2020
https://baophapluat.vn/tu-phap/can-don-gian-thu-tuc-uy-quyen-doi-voi-duong-su-la-pham-nhan-493027.html
https://static.baophapluat.vn/Uploaded/Edition/pdf_041_2020_QGAT.pdf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét